Tiếp kiến chung của Đức Thánh cha: Thánh nữ Kateri chỉ cho ta cách thực hiện công việc thường nhật một cách ngoại thường

Photo: Vatican Media

Sáng thứ Tư, ngày 30 tháng Tám năm 2023, Đức Thánh cha Phanxicô đã thực hiện buổi tiếp kiến chung cuối cùng của tháng Tám. Cũng như tuần trước, ngài gặp gỡ hơn 6.000 tín hữu hành hương, tại Đại thính đường Phaolô VI ở nội thành Vatican.


G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA

Trong phần mở đầu lúc gần 9 giờ, mọi người đã nghe đọc một đoạn ngắn, trong tám thứ tiếng, trích từ thư thứ I của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu thành Thessalonica (5,15-18):

Đừng lấy ác báo ác đối với một ai, nhưng hãy luôn luôn tìm kiếm điều thiện giữa anh chị em và với tất cả mọi người. Anh chị em hãy luôn vui tươi, cầu nguyện không ngừng, và trong mọi sự hãy cảm tạ: thực vậy, đó là ý Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô đối với anh chị em”.

Bài huấn giáo

Trong phần huấn giáo tiếp đó, Đức Thánh cha tiếp tục loạt bài giáo lý về “sự hăng say loan báo Tin mừng: lòng nhiệt thành tông đồ của tín hữu”. Bài thứ mười chín này mang tựa đề: “Cầu nguyện và vui mừng phục vụ: Kateri Tekakwitha: vị thánh bản xứ Bắc Mỹ đầu tiên”.

Đức Thánh cha nói: Anh chị em thân mến, chào anh chị em!

Tiếp tục loạt bài giáo lý của chúng ta về lòng nhiệt thành và hăng say loan báo Tin mừng, hôm nay chúng ta nhìn đến thánh nữ Kateri Tekakwitha, phụ nữ đầu tiên sinh tại Bắc Mỹ được tôn phong hiển thánh.

Thuở thơ ấu của thánh Kateri

Thánh nữ sinh khoảng năm 1656 tại một làng thuộc miền bắc bang New York và là con của một tù trưởng thuộc bộ lạc Mohawk, không được rửa tội và mẹ là tín hữu Công giáo thuộc bộ tộc Algonchina. Bà dạy cho Kateri cầu nguyện và hát thánh ca chúc tụng Thiên Chúa. Nhiều người trong chúng ta cũng được dâng cho Thiên Chúa trong môi trường gia đình, nhất là do mẹ và các ông bà nội ngoại của chúng ta. Việc loan báo Tin mừng thường bắt đầu như vậy: với những cử chỉ đơn sơ, bé nhỏ, như cha mẹ giúp các con học nói với Thiên Chúa trong kinh nguyện hoặc kể cho chúng ta tình thương bao la và thương xót của Chúa. Những căn bản đức tin đối với Kateri, và thường đối với chúng ta, được trình bày theo cách thức đó.

Bệnh tật và thử thách

Khi Kateri được bốn tuổi, một cơn dịch đậu mùa xảy ra cho bộ lạc của bé. Song thân và em trai của Kateri bị thiệt mạng và cả Kateri cũng bị những vết sẹo trên mặt và có vấn đề về mắt. Từ lúc đó trở đi Kateri phải đương đầu với nhiều khó khăn: chắc chắn là những khó khăn thể lý vì hậu quả của bệnh đậu mùa, và cả những hiểu lầm, những bách hại và thậm chí cả những lời dọa giết, sau khi bé chịu phép rửa tội vào Chúa nhật Phục sinh năm 1676. Tất cả những điều đó làm cho Kateri rất yêu mến thập giá, dấu chỉ tình thương của Chúa Kitô, Đấng đã hiến thân đến cùng vì chúng ta. Thực vậy, chứng tá Tin mừng không phải chỉ liên hệ tới những gì thoải mái, chúng ta cũng phải biết kiên nhẫn, tin tưởng và hy vọng vác thánh giá hằng ngày của chúng ta. Khi chúng ta gặp những khó khăn trong cuộc sống và loan báo Tin mừng, chúng ta có thể bị cám dỗ nản chí, trốn chạy trong những xác tín của chúng ta hoặc khép mình trong những nhóm nhỏ có cùng lập trường như chúng ta. Cuộc sống của Kateri Tekakwitha chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng mỗi thách đố có thể được khắc phục nếu chúng ta mở tâm hồn đối với Chúa Giêsu, Đấng ban cho chúng ta ơn chúng ta cần để tiếp tục hành trình cuộc sống Kitô, trong sự trung thành và kiên trì.

Cuộc sống đạo đức và tông đồ

Sau khi được rửa tội, Kateri phải tị nạn nơi những người Mohawk trong cứ điểm truyền giáo của các cha Dòng Tên, gần thành phố Montréal [bên Canada]. Tại đó, Kateri tham dự thánh lễ mỗi buổi sáng, dành thời giờ chầu Mình Thánh Chúa, đọc kinh Mân côi và sống một cuộc sống thống hối. Những việc đạo đức này của Kateri gây ấn tượng mạnh nơi mọi người trong cứ điểm truyền giáo; họ nhìn nhận nơi Kateri một sự thánh thiện có sức thu hút vì nảy sinh từ lòng yêu mến nhiệt thành đối với Thiên Chúa. Đồng thời, Kateri dạy các em bé trong cứ điểm truyền giáo cầu nguyện, và qua sự trung thành chu toàn trách nhiệm, kể cả việc chăm sóc các bệnh nhân và người già, nêu gương phục vụ khiêm tốn và yêu mến Thiên Chúa và tha nhân. Tại đây, chúng ta thấy một quan hệ sinh tử với Thiên Chúa mang lại thành quả trong việc dấn thân thực hiện những công việc từ bi bác ái đơn sơ và thường nhật, về vật chất cũng như tinh thần, đối với các anh chị em, nhất là những người nghèo và người túng quẫn nhất.

Tận hiến cho Chúa

Mặc dù được khuyến khích kết hôn, nhưng Kateri muốn hiến trọn cuộc sống cho Chúa Kitô. Vì không thể đi tu, Kateri khấn trinh khiết trọn đời, ngày 25 tháng Ba năm 1679, Đại lễ Truyền tin. Sự chọn lựa ấy của Kateri cho chúng ta một khía cạnh khác trong lòng nhiệt thành tông đồ, đó là tận hiến cho Chúa. Chắc chắn là không phải tất cả chúng ta đều được kêu gọi khấn như Kateri; nhưng mỗi Kitô hữu đều được kêu gọi hằng ngày dấn thân với một con tim không chia sẻ, trong ơn gọi và sứ mạng được Chúa ủy thác, phụng sự Chúa và tha nhân trong tinh thần bác ái.

Bài học của thánh Kateri

Đức Thánh cha nói rằng: Anh chị em, cuộc sống của Kateri càng làm chứng rằng lòng nhiệt thành tông đồ bao hàm một sự kết hiệp sinh động với Chúa Giêsu, được nuôi dưỡng bằng kinh nguyện và các bí tích, cũng như ước muốn phổ biến vẻ đẹp của sứ điệp Kitô qua sự trung thành với ơn gọi đặc thù của mình. Vì vậy, nơi Kateri Tekakwitha, chúng ta gặp thấy một phụ nữ đã làm chứng về Tin mừng, không phải bằng những công việc vĩ đại, vì chị không hề thành lập một cộng đoàn dòng tu, hoặc một tổ chức giáo dục hay từ thiện nào, nhưng trong niềm vui âm thầm và tự do của một cuộc sống cởi mở đối với Chúa và tha nhân. Cả trong những ngày trước khi qua đời, xảy ra ngày 17 tháng Tư năm 1680, lúc được 24 tuổi, Kateri chu toàn ơn gọi trong sự đơn sơ, yêu mến và chúc tụng Thiên Chúa, và dạy cho những người lân cận cùng làm như vậy. Thực vậy, những lời cuối cùng của Kateri là “Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa”.

Và Đức Thánh cha kết luận: “Vì thế, cả chúng ta, khi kín múc sức mạnh từ Chúa, như thánh nữ Kateri Tekakwitha, chúng ta học cách thực hiện những công việc thường nhật một cách ngoại thường và nhờ đó tăng trưởng mỗi ngày trong đức tin, đức ái và chứng tá nhiệt thành về Chúa Kitô”.

Chào thăm và mời gọi

Bài huấn dụ trên đây được tóm tắt trong nhiều thứ tiếng cho các nhóm tín hữu thuộc các ngôn ngữ khác nhau, cùng với lời chào thăm và nhắn nhủ của Đức Thánh cha.

Bắt đầu với các nhóm nói tiếng Pháp, Đức Thánh cha đặc biệt chào thăm các nữ tu thuộc Dòng Đức Mẹ Maria dâng mình đang nhóm Tổng tu nghị dưới ánh sáng lễ phong thánh cho Mẹ sáng lập Marie Rivier, đồng thời cầu chúc rằng: “Ước gì chị em để cho mình được lòng nhiệt thành và hăng say tông đồ mà Chúa Thánh Linh đổ xuống trong mọi thời đại những con người yêu mến Chúa và đặt Chúa lên trên mọi sự!”.

Bằng tiếng Anh, Đức Thánh cha đặc biệt nhắc đến những người đi xe đạp từ Anh quốc và hứa cầu nguyện cho những cố gắng của họ trong việc bài trừ bệnh ung thư. Ngài cũng chào các em giúp lễ từ đảo Malta và nhiều nhóm từ Mỹ, đồng thời cầu xin Chúa ban an vui xuống trên gia đình họ.

Nói với các tín hữu sử dụng tiếng Tây Ban Nha, Đức Thánh cha cho biết chiều ngày thứ Năm, 31 tháng Tám, ngài lên đường viếng thăm anh chị em ở Mông Cổ và xin mọi người đồng hành với ngài trong kinh nguyện qua chuyến viếng thăm này.

Khi chào bằng tiếng Ba Lan, Đức Thánh cha nói: “Tại quê hương anh chị em, đang chờ đợi lễ phong chân phước sắp tới cho gia đình Ulma. Tại nhiều giáo phận, tuần chín ngày, bắt đầu từ ngày 07 tháng Chín sắp tới, sẽ là một cuộc chuẩn bị tinh thần cho đại lễ này. Ước gì gương của gia đình anh dũng này, đã hy sinh mạng sống của mình để cứu những người Do thái bị bách hại, giúp anh chị em hiểu rằng sự thánh thiện và những cử chỉ anh hùng là những điều ta đạt được qua sự trung thành trong những công việc bé nhỏ thường nhật. Tôi chân thành chúc lành cho anh chị em”.

Sau cùng, bằng tiếng Ý, Đức Thánh cha chào thăm các em tại Giáo phận Chiavari mới chịu phép Thêm sức và nói: Các con thân mến, các con mới lãnh nhận Chúa Thánh Linh, hãy dấn thân hằng ngày tìm được sức mạnh và can đảm trong Chúa. Tôi vui mừng chào đón giáo xứ thánh Gioan tông đồ ở Barletta, đang mừng kỷ niệm 25 năm thành lập: ước gì dịp kỷ niệm này củng cố nơi mỗi người tinh thần đức tin và tình hiệp thông Giáo hội....

Đức Thánh cha nhắc đến những người trẻ, người cao niên và các đôi tân hôn. Ngài nhắn nhủ rằng: “Chỉ Chúa Kitô mới có những lời ban sự sống đời đời: vì thế tôi cầu chúc anh chị em luôn luôn theo Chúa với một con tim rộng mở và hăng say làm chứng về Chúa mỗi ngày trong cuộc sống.

“Chúng ta hãy canh tân sự gần gũi và kinh nguyện của chúng ta cho Ucraina yêu quí, bị thử thách vì khổ đau lớn lao.”

Buổi tiếp kiến chung kết thúc với kinh Lạy Cha và phép lành của Đức Thánh cha.