Thánh John Henry Newman, vị Tiến sĩ thứ 38 của Hội thánh
Đại lễ Các Thánh, ngày 01 tháng Mười Một sắp tới, Đức Thánh cha Lêô XIV sẽ tôn thánh John Henry Newman (1801-1890), người Anh, làm vị Tiến sĩ thứ 38 của Hội thánh. Trước đó, Đức Thánh cha cũng tôn thánh nhân là đồng bổn mạng sứ mạng giáo dục của Hội thánh, cùng với thánh Tôma Aquinô. Thánh John Henry Newman nổi bật về đời sống thánh thiện và có đạo lý trổi vượt qua các tác phẩm, được coi là một trong những tư tưởng gia Kitô giáo lớn nhất trong các thế kỷ gần đây.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Thân thế
John Henry Newman là trưởng nam trong gia đình có sáu anh em. Thân phụ là chủ ngân hàng và mẹ gốc người Pháp di cư. Năm 16 tuổi, cậu bắt đầu học Thần học tại Đại học Trinity ở Oxford và tám năm sau, 1825, được thụ phong mục sư Anh giáo. Ba năm sau đó, mục sư Newman coi sóc giáo xứ Saint Mary của các giáo sư và sinh viên đại học.
Đức Hồng y Newman sống trong thế kỷ XIX vốn có xu hướng duy thực nghiệm và duy khoa học. Khi là một thần học gia Anh giáo, ngài đã khởi xướng Phong trào Oxford nhắm đào sâu việc nghiên cứu thần học, đặc biệt trong lĩnh vực giáo phụ, tức là nghiên cứu về nền thần học trong thời kỳ Giáo hội chưa bị chia rẽ, nhưng còn thống nhất giữa Đông và Tây phương, đồng thời đối phó với những thách đố của trào lưu tân thời. Chính việc nghiên cứu ấy đã làm cho mục sư Newman đến gần Công giáo và gia nhập Giáo hội này vào năm 1845, khi đã 45 tuổi. Biến cố này đã gây kinh ngạc trong dư luận Anh giáo lúc bấy giờ. Hai năm sau, tức năm 1847, ngài thụ phong linh mục tại Roma.
Sau khi trở lại Công giáo, cha Newman cũng gặp nhiều khó khăn và chống đối, nếu không muốn nói là đố kỵ. Thiên tài thần học của ngài, chủ trương đề cao quyền tối thượng của lương tâm trên mọi chủ trương duy tín điều đã khơi lên những ghen tuông và ngờ vực. Cả trong hàng giáo phẩm Công giáo bấy giờ không thiếu những người cho rằng cha Newman không có đủ đặc tính “Roma” và không cứng rắn đủ đối với Anh giáo mà cha đã từ bỏ. Cha Newman đã vượt qua được những thử thách đó, và luôn chủ trương rằng “mười ngàn khó khăn cũng không tạo nên một nghi ngờ, nếu tôi hiểu rõ vấn đề”.
Cha John Henry Newman, người đã giữ vai chính trong đời sống văn hóa ở Oxford, nay bị gạt ra ngoài lề trong Công giáo, vì người ta trách cứ cha không thực hiện đủ cuộc trở lại. Ngài viết: “Đối với tôi, các cuộc trở lại không phải là công việc thiết yếu, nhưng đúng hơn là việc “xây dựng cho các tín hữu Công giáo”.
Những khó khăn
Cha Newman gia nhập Dòng thánh Philipphê Neri và định cư tại thành phố Birmingham. Tại đây, cha cũng thành lập một nhà của dòng. Tuy là một nhà đại tư tưởng, nhà trí thức xuất sắc, nhưng cha sống cạnh những lầm than của các khu xóm lụp xụp, trong một môi trường Giáo hội trong đó có ít người được học hành, và chính từ đó, ơn thánh Chúa nơi ngài bắt đầu gieo vãi đầy tay.
Cha Newman viết: “Chiến thắng đích thực của Tin mừng hệ tại điều này là: khi nâng cao con người thuộc mọi tầng lớp lên trên bản thân họ và lên trên bản tính con người, khi kiến tạo sự cộng tác kỳ diệu của ý chí với ơn thánh... đó là nên thánh: đó chính là sự sáng tạo đích thực của Tin mừng và của Giáo hội”.
Những vấn nạn trong Công giáo chống cha Newman chỉ chấm dứt, sau khi Đức Giáo hoàng Lêô XIII phong cha làm Hồng y, vào năm 1879 khi cha sắp tròn 80 tuổi. Việc bổ nhiệm này được coi như một sự nhìn nhận công trình, các tác phẩm và vai trò cao quý của cha.
Khi Đức Hồng y Newman qua đời năm 1890, Giáo hội Công giáo tại Anh quốc ở trong giai đoạn tái triển nở sau ba thế kỷ bị bách hại và bị gạt ra ngoài lề xã hội.
Đức Hồng y Newman đã ảnh hưởng lớn trên nhiều thế hệ các tín hữu Công giáo Anh quốc, trong đó có rất nhiều người trở lại. Ngài cũng ảnh hưởng trên đại truyền thống văn hóa Công giáo tại các nước Anglosaxon, với những tác giả tên tuổi, như Chesterton, Belloc, Tolkien, Bruce Marshall và bao nhiêu người khác nữa.
Phong chân phước
Tư tưởng của Đức Hồng y Newman, - đức tin liên kết với lý trí - là điều thời sự hơn bao giờ hết. Vì thế, việc phong chân phước cho Đức Hồng y Newman làm cho một số thành phần cảm thấy khó chịu và mạnh mẽ chống đối: đó là những người chủ trương một thứ thanh giáo. Một đàng, cổ võ và truyền bá nền văn hóa tự do tính dục, và đàng khác thì vừa khi Giáo hội Công giáo tìm cách làm nổi bật điều gì là tốt đẹp, và thánh thiện, thì họ tìm cách tấn công Giáo hội một cách quyết liệt. Người ta thấy điều đó khi gần đây, trong tiến trình điều tra phong chân phước, có việc mở mộ Vị tôi tớ Chúa để kiểm chứng, thì có nhiều phản ứng, đặc biệt từ các nhóm ủng hộ đồng tính luyến ái ở Anh, cho rằng không nên di chuyển di hài Đức Hồng y Newman đi xa khỏi mộ của người bạn chí thân và là cộng tác viên thân tín của ngài, là cha Ambrose Saint John, hai vị an táng chung, theo di chúc của ngài.
Ngụ ý của những lời phản đối ấy thật là rõ ràng: Newman muốn được chôn với người bạn của mình, vì cả hai đã có một liên hệ với nhau thắm thiết hơn là tình bạn thông thường. Để biện minh cho lập trường này, thậm chí người ta cho rằng, khi cha Ambrose qua đời, Đức Hồng y Newman đã viết rằng: “Tôi vẫn luôn nghĩ không có cái tang nào bằng cái tang của người chồng hay người vợ, nhưng tôi cảm thấy khó tin là có một cái tang lớn hơn, đau đớn hơn cái tang của tôi”. Trong câu này chỉ ám chỉ đến cảm giác mất mát, chứ chắc chắn là không phải là sự coi hai bậc sống là ngang nhau.
Ngoài ra, Đức Hồng y Newman vẫn luôn là người quyết liệt hỗ trợ sự khiết tịnh và sự độc thân linh mục, đến độ ngài định nghĩa sự độc thân này là “một bậc sống cao hơn mà đại đa số người nam không thể mong ước”. Thậm chí, những người ác ý còn coi khẩu hiệu của ngài “cor ad cor loquitur”, lòng nói với lòng, như một sự ám chỉ tình cảm của ngài với cha Ambrose, mà cố tình không biết rằng khẩu hiệu ấy là câu nói của thánh Phanxicô đệ Salê.
Trong thực tế giữa Đức Hồng y Newman và cha Ambrose Saint John là một tình bạn thân thiết dựa trên lòng yêu mến Chúa Kitô và Giáo hội của Chúa. Khi cha Ambrose qua đời, lúc ấy cha đang làm việc theo yêu cầu của Đức Hồng y Newman để dịch một văn bản thần học hỗ trợ đạo lý về tín điều ơn bất khả ngộ của Đức Giáo hoàng.
Nhưng nền văn hóa tháo thứ và cổ võ tính dục dường như không muốn nhận rằng có thể có những quan hệ thân hữu thanh khiết và nhưng không: dường như họ không thể hiểu được vẻ đẹp luân lý mà Chúa Kitô đã biểu lộ.
Trong bối cảnh đó, qua việc tôn phong chân phước cho cha Newman, Giáo hội đề cao người như một gương mẫu trong việc theo Chúa Kitô. Giáo hội khích lệ các tín hữu đừng cam chịu ý tưởng mình phải bó tay chấp nhận một thế giới dường như hoàn toàn bị tục hóa. Việc phong chân phước cho Đức Hồng y Newman cũng là một dấu hiệu của Giáo hội để cứu vãn và làm hồi sinh châu Âu Kitô giáo. Trên mộ của ngài, Đức Hồng y Newman đã cho khắc những lời này: “Ex umbris et imaginibus ad veritatem”: Qua hình bóng đến chân lý. Đây chính là vận mệnh của các tín hữu Kitô trong thời đại khó khăn ngày nay.
Việc phong chân phước cho Đức Hồng y Newman cũng là một cơ hội suy tư cho Giáo hội Anh giáo đang bị hoang mang. Sau khi Nữ hoàng Elizabeth II, Anh giáo có một vị Giáo chủ chính thức, nay là Vua Charles III. Ông đã từng tuyên bố mình là người phiếm thần. Và trong số các giám mục Anh giáo hiện nay có những người công khai tuyên bố mình không tin những điều vốn là nền tảng đức tin Kitô.
Đại kết
Cha Jean Stern, Dòng thừa sai La Salette và thành viên Hiệp Hội các bạn của Newman tại Pháp, cho biết nhiều tín hữu Anh giáo tiếp tục coi Đức Hồng y Newman là một người của họ, theo nghĩa ngài trở thành Công giáo do lòng trung thành với giáo huấn mà ngài đã nhận được từ Anh giáo: bắt đầu là lòng gắn bó với Đấng Tạo Hóa, với Chân Lý. Tiếp đến là cảm thức của nhà thần học Newman về mầu nhiệm Giáo hội mà ngài đã khám phá khi tiếp xúc với các tín hữu Anh giáo thuộc thượng Giáo hội, tức là Anh giáo gần gũi với Công giáo.
Khi còn là một mục sư Anh giáo, Newman đã dạy rằng sự hiệp thông với các giám mục mang lại cho chúng ta ơn đến gần “núi Sion, thành Giêrusalem thiên quốc.., đến gần Chúa Giêsu là Đấng Trung Gian duy nhất và là Thiên Chúa”.
Theo cha Newman, toàn thể các Giáo hội do các giám mục cai quản, họp thành Giáo hội Công giáo.
Khi còn là mục sư Anh giáo, Newman cho rằng chính sự sa đọa trong Giáo hội Công giáo ngăn cản sự gia nhập của các tín hữu Anh giáo vào Công giáo. Giáo hội Roma đã chẳng bất trung với các giáo huấn từ thời các tông đồ truyền lại và thực hành những việc phụng tự sai trái đó sao? Chẳng hạn, việc thờ phượng Đức Mẹ, vốn không có trong Giáo hội sơ khai.
Tuy nhiên, mục sư Newman nhận rằng giữa Giáo hội Roma và Anh giáo có một mối liên hệ rất thực tế nhờ sự hiện hữu của các giám mục, bắt nguồn từ các tông đồ. Newman nghĩ rằng Giáo hội Công giáo gồm ba ngành: Giáo hội Roma, Giáo hội Anh quốc và Giáo hội Đông phương (Hy Lạp). Sự hiệp thông trọn vẹn giữa ba ngành, nhất là giữa Roma và Anh quốc trên nguyên tắc phải là chuyện bình thường.
Nhưng Newman cũng nhận thấy rằng sự phê bình Giáo hội Công giáo là một nhu cầu thật buồn. Sau này, khi trở thành tín hữu Công giáo, Newman ghi nhận rằng, phê bình Roma, tấn kích Roma, đó là một nhu cầu sinh tử đối với những người tách rời khỏi Giáo hội này. Trong cuốn sách Hộ giáo (Apologia) nổi tiếng, Newman trích dẫn công thức nghịch lý của nhà thần học Anh giáo Bernard Gilpin hồi thế kỷ XVI: Người Tin lành không thể đưa ra một biện minh nào cho sự ly khai của họ “ngoại trừ lý lẽ này: Giáo hoàng là ngụy Kitô.”
Tiến trình trở lại
Tiến trình trở lại Công giáo của mục sư Newman bắt đầu từ mùa hè năm 1839: mục sư Newman lợi dụng thời giờ rảnh rỗi để nghiên cứu lịch sử Giáo hội hồi thế kỷ thứ V và cuộc khủng hoảng đưa tới Công đồng chung Calcedonia, hồi năm 451. Mục sư khám phá thấy rằng Euthychè lạc giáo và những người theo thuyết nhất thể (monophysites), Chúa Kitô chỉ có một bản tính, lập luận trước giáo huấn của thánh Giáo hoàng Lêô Cả và của Công đồng theo cùng một thể thức, như lập luận về sau này được phía Tin lành và Anh giáo sử dụng, đứng trước Công đồng chung Trentô. Thực vậy, nhóm nhất thể và những người Tin lành cũng như Anh giáo phủ nhận giáo huấn của Công đồng, viện cớ rằng giáo huấn này trái ngược với giáo huấn chứa đựng trong Kinh thánh và trong Truyền thống, hoặc ít là, họ viện cớ giáo huấn ấy vượt quá giới hạn của các giáo huấn xưa kia.
Một khám phá thứ hai trong tiến trình trở lại Công giáo của mục sư Newman diễn ra ít lâu sau năm 1839: đó là nguyên tắc đã được thánh Augustinô đề ra hồi thế kỷ thứ IV, trong cuộc tranh luận với các tín hữu Kitô ly khai. Nguyên tắc đó thế này: “mọi người có lý mà khẳng định rằng những người xa lìa thế giới Kitô thì sai lầm hoàn toàn”. Trong thế kỷ thứ IV rồi thế kỷ thứ V, rất nhiều tín hữu Kitô tách rời khỏi trung tâm Kitô giáo, nghĩa là Tòa Thánh. Đó là những người theo lạc giáo Nestôriô, những người theo thuyết nhất thể. Nguyên tắc do thánh Augustinô đề ra giúp kết luận tiên thiên rằng nhóm người ấy là sai lầm. Về phần Tòa Thánh, mục sư Newman nhận thấy rằng Tòa Thánh vẫn là trung tâm của thế giới Kitô giáo, hồi thế kỷ thứ XIX cũng như hồi thế kỷ thứ XVI và thế kỷ thứ V.
Mục sư Newman khám phá các chân lý trên đây hồi năm 1839, nhưng mãi sáu năm sau, nghĩa là đến năm 1845 Newman mới trở lại Công giáo, vì có một chướng ngại cũ vẫn còn, theo đó mục sư cho rằng Roma dạy những điều không đúng và làm cho người ta hành động không đúng. Vì thế, gia nhập Công giáo có nghĩa là thỏa hiệp với điều xấu ấy. Mục sư Newman đứng trước một trường hợp khó khăn. Nhưng rồi đã ra khỏi được tình trạng đó nhờ đọc các sách do cha Russell, Giáo sư tại Đại chủng viện Maynooth ở Ailen cung cấp. Cha Russell cho Newman đọc những sách đạo đức dành cho dân thường. Nhờ đó, Newman thấy rằng giáo huấn Công giáo dành cho dân Công giáo không phải là việc tôn thờ ngẫu tượng hoặc mê tín như trước đó ông vẫn tưởng.
Trước khi gia nhập Công giáo, mục sư Newman đã viết cuốn sách thời danh “Khảo luận về sự phát triển tín lý”. Sở dĩ mục sư Newman viết cuốn này là vì trong tư cách là nhà thần học, ông thiết nghĩ có một bổn phận lương tâm phải kiểm chứng. Tuy nhiên, sau khi mục sư thấy rõ đầy đủ thì liền xin gia nhập Công giáo ngay, mà không đợi cho đến khi hoàn thành cuốn sách.
Trong sách này, nhà thần học Newman cũng trả lời một vấn nạn trước kia đã đưa ra để trách cứ Roma đã thay đổi tín lý. Câu trả lời của nhà thần học Newman ở đây thật là sáng sủa và đơn sơ: để trung thành trọn vẹn với một dữ kiện mạc khải, cần phải đề ra những sự xác định, làm sáng tỏ khi nảy sinh những vấn đề mới. Vì thế, hồi thế kỷ thứ V. đứng trước lạc giáo bấy giờ, Công đồng chung Calcedonia thấy cần phải định tín và xác định đó là “sự diễn tả đích thực duy nhất của đạo lý chính tông”. Lịch sử sau đó đã xác nhận điều ấy.
Thuyết nhất thể phát sinh từ lòng nhiệt thành thần bí, từ một ý chí quyết liệt trung thành với giáo huấn của thánh Cirilo thành Alessandria. Nơi ngài, người ta gặp thành ngữ “monophysis” có nghĩa là một bản tính. Nhưng theo thánh nhân, từ physis=bản tính chưa có nghĩa chính xác như về sau này. Khi dạy rằng, trong Chúa Kitô, có hai bản tính, trong thực tế chính Công đồng chung Calcedonia đã trung thành với thánh Cirilo. Đáng tiếc là những người phủ nhận giáo huấn đó, quá nhiều khi tỏ ra một sự yếu đuối, có thể nói là về cơ chế, thúc đẩy họ đi theo lạc giáo.
Vốn biết rõ lịch sử Giáo hội, mục sư Newman biết trước có những khó khăn chờ đón mình sau khi gia nhập Công giáo. Và thực sự đã xảy ra như vậy. Thậm chí, người ta còn nghi ngờ Newman lạc giáo. Tuy Đức Lêô XIII bổ nhiệm ngài làm Hồng y, nhưng điều này chỉ diễn ra vào năm 1879, tức là 34 năm sau khi Newman trở lại Công giáo.
Trong một thư hồi năm 1868, tức là hơn 20 năm sau khi trở lại, cha Newman viết: “Trong Công giáo có một chiều sâu và một sức mạnh, trong tín lý của đạo có thần học, các nghi thức, các bí tích, và trong kỷ luật của đạo có một sự sung mãn làm cho chúng ta được tràn đầy; trong đạo có một tự do, nhưng cũng có một nâng đỡ, so với những điều đó, sự lơ là của con người đối với chúng ta, dù là những người ở địa vị cao nhất, mà chúng ta có thể là nạn nhân những hiểu lầm của họ, không đáng kể là gì. Đó thực là bí quyết sức mạnh của Giáo hội, nguyên tắc về sự không thiếu sót của Giáo hội, và mối dây đảm bảo sự hiệp nhất không thể phá vỡ của Giáo hội. Đó thực là khởi đầu của an bình thiên quốc”.
Phong hiển thánh
Ngày 13 tháng Hai năm 2019, Bộ Phong thánh đã công bố sắc lệnh nhìn nhận một phép lạ nhờ lời chuyển cầu của chân phước John Henry Newman (1801-1890).
Phép lạ này là sự kiện một phụ nữ có thai ở Chicago Hoa kỳ, bà Melissa Villalobos, bị xuất huyết không thể cầm hãm được, và theo các bác sĩ điều trị, sinh mạng của bà cũng như của thai nhi bị đe dọa. Bà đã cầu nguyện với Đức Hồng y Newman, xin cứu giúp và bà được lành bệnh xuất huyết một cách lạ lùng, khiến các bác sĩ không thể giải thích được sự khỏi bệnh lạ lùng của bà.
Lễ phong thánh
Thánh Newman đã được Đức Thánh cha Phanxicô tôn phong hiển thánh cùng với bốn vị chân phước khác, trong thánh lễ lúc 10 giờ sáng Chúa nhật, ngày 13 tháng Mười năm, tại Quảng trường Thánh Phêrô, trước sự tham dự của hơn một trăm ngàn người, trong đó có hai mươi ngàn người từ Anh quốc và Ailen, đặc biệt là Thái tử Charles của Anh quốc khi ấy.
Thánh lễ hôm đó diễn ra trong khuôn khổ Thượng Hội đồng Giám mục về miền Amazzonia nên cũng có số hồng y, giám mục và linh mục đồng tế đông đảo nhất trong số các thánh lễ do Đức Thánh cha cử hành trong năm đó. Theo Ban phụng vụ của Đức Thánh cha, có hơn 300 hồng y và giám mục và 2.400 linh mục đồng tế, đặc biệt là cha Ignatius Harrison, Bề trên cộng đoàn Dòng giảng thuyết thánh Philipphê Neri, do Đức Hồng y Newman thiết lập ở Birmingham, Anh quốc.
Trong bài giảng thánh lễ khi ấy, Đức Thánh cha nhắc đến sự nên thánh hằng ngày mà thánh Hồng y Newman đã nói: “Kitô hữu có một niềm an bình sâu xa, thầm lặng, kín đáo mà thế gian không thấy [...]. Tín hữu Kitô vui mừng, yên hàn, tốt lành, dễ mến, lịch sự, chân thành, khiêm tốn; không tự phụ, [...] thái độ của họ không hề có vẻ khoa trương và kiểu cách, và khi nhìn họ, người ta dễ dàng thấy họ là một người bình thường” (Parochial and Plain Sermons, V,5).