Đức Thánh cha gặp gỡ các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ và nhân viên mục vụ Công giáo Liban

Thứ Hai, ngày 01 tháng Mười Hai năm 2025, sau khi giã từ Đan viện có mộ thánh Charbel, Đức Thánh cha Lêô XIV tiếp tục hành trình đến Đền thánh Đức Mẹ Liban ở Harissa, cách đó 42 cây số, để gặp gỡ các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ và các nhân viên mục vụ.

G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA

Đền thánh Đức Mẹ Liban ở Harissa là nơi hành hương nổi tiếng bậc nhất ở Liban, nằm trên đỉnh một ngọn đồi nhìn xuống bờ biển và vịnh Jounieh. Đền thánh được xây dựng năm 1904, nhân dịp kỷ niệm 50 năm Đức Piô IX công bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Lễ khánh thành diễn ra vào Chúa nhật đầu tiên của tháng Năm năm 1908, và từ đó trở thành lễ hằng năm của Đức Mẹ Liban. Tượng Đức Mẹ bằng đồng, trắng, đúc tại Lyon (Pháp), cao 8,50 m và nặng khoảng 15 tấn. Tháp-bệ hình nón bằng đá đẽo thủ công cao 21m; du khách hành hương thường leo lên đỉnh tượng bằng cầu thang xoắn ốc, nhiều người đi chân trần hoặc quỳ gối.

Được giao cho Hội Truyền giáo Liban, đây là một trong những Đền thánh Đức Mẹ quan trọng nhất Trung Đông. Khách hành hương đến quanh năm, đặc biệt trong tháng Năm, với những cuộc rước đêm từ bờ biển. Nhiều tín đồ Hồi giáo cũng đến kính viếng Đức Mẹ.

Từ tháng Bảy năm 1993, một Vương cung thánh đường mới đứng cạnh tháp-bệ của Đền. Kiến trúc táo bạo của nhà thờ tượng trưng cho mũi một con thuyền Phoenicia. Bên trong lưu giữ một bản sao tượng Đức Mẹ Lộ Đức được thánh Gioan Phaolô II làm phép ngày 22 tháng Ba năm 1992 và được đưa về Liban qua Tổ chức Hành hương Rôma.

Khi đến Đền thánh, Đức Thánh cha đã được hàng ngàn người nồng nhiệt tiếp đón. Đức Thượng phụ Giáo hội Armeni chào mừng ngài, và có ba chứng từ được lần lượt trình bày:

Chứng từ

Trước tiên là cha Youhanna-Fouad Fahek, thuộc Giáo hội Công giáo Maronite. Cha nói: “Con là Youhanna-Fouad Fahed, sinh quán tại Kobayat (Akkar), linh mục được tám năm, đã lập gia đình và là cha của một bé gái sáu tuổi, đồng thời là giáo sư văn chương Pháp tại Trường Trung học công lập của làng quê con. Việc phục vụ mục vụ tại Debbabiyé - ngôi làng nhỏ vùng ngoại biên, nơi người Hồi giáo (Sunni) và Kitô hữu (Chính thống và Maronite) cùng chung sống - đã giúp con nhận ra rằng chính nơi đây đã âm thầm chứng kiến biết bao tàn khốc trong thập niên vừa qua. Con xin tóm lược trong ba điểm:

  1. Từ những ngày đầu chiến tranh Syria, ngôi làng này đã chịu nhiều đau thương, đặc biệt là các trận pháo kích từ phía Syria. Phần lớn các tín hữu Maronite đã rời bỏ nhà cửa để lánh nạn về làng quê của con, tránh xa hiểm nguy nơi biên giới.
  2. Khi khủng hoảng kinh tế ập đến, tình cảnh giáo xứ càng trở nên bi đát: không còn điện, nước uống - trước đây được lấy nhờ máy bơm điện - không còn khả dụng; những người dân từng trở về sau các trận pháo kích nay cũng không còn phương tiện tối thiểu để sinh sống.
  3. Ngày 08 tháng Mười Hai năm 2023, khi chế độ Syria sụp đổ, giáo xứ đã trải qua một ngày căng thẳng lớn. Nhưng đau đớn hơn cả là những gì diễn ra ngay bên kia biên giới: những người bị bách hại lặng lẽ vượt qua, chạy trốn đau khổ, ẩn mình trong thinh lặng, không dám bộc lộ sự hiện diện. Không ai có thể nghe thấy tiếng kêu của họ.

Kính thưa Đức Thánh cha, chiếc túi dùng để quyên góp trong thánh lễ Chúa nhật đã nói với con tiếng kêu thầm lặng đầu tiên: trong đó con thấy tiền Syria. Một của lễ thấm đẫm đau thương.

Trong giáo xứ, chẳng có gì biểu lộ nỗi khốn cùng: mọi sự tưởng như bình an, yên tĩnh. Thế nhưng, ẩn dưới bề mặt ấy là một dân đang chịu đựng khủng hoảng Liban, và một dân khác - kín đáo hơn nữa - đang chịu bách hại và lưu vong.

Con phải làm gì? Con không biết gì cả... Một mình, cùng chia sẻ với dân mình nỗi đau bị bóp nghẹt bởi sợ hãi, sự túng quẫn bị che giấu bởi nỗi hổ thẹn khi phải xin trợ giúp, con đã lên đường tìm kiếm họ.

Con đã gặp những gia đình chạy trốn sau các cuộc bách hại tôn giáo, những gia đình phải trú ẩn nơi người quen để bảo vệ con gái khỏi nguy cơ bị bắt cóc, ép cưới; những người trẻ - từng là nhân viên chính quyền Syria - bị trục xuất, tay trắng và kiệt quệ; những thanh niên dự tính vượt biên trái phép sang châu Âu, phó thác giấc mơ của mình cho bọn buôn người, những kẻ đã cướp đi toàn bộ tiền dành dụm của họ; và cả những gia đình đã bán sạch nhà cửa để vượt biên, không định hướng, không tia hy vọng nào cho số phận bi đát trước mắt...

Kính thưa Đức Thánh cha,

Đối diện với nỗi khốn cùng âm thầm ấy, con cảm thấy bất lực, nhưng đồng thời cũng được mời gọi phải hành động, dù chỉ bằng việc mang những đau thương đó vào trong lời cầu nguyện. Những khuôn mặt mang dấu thương tích ấy đã cho con thấy chiều sâu đức tin của một dân tộc vẫn tiếp tục tin vào sự Quan Phòng, mặc cho mọi thử thách. Đau khổ của họ trở thành lễ dâng; túng quẫn của họ trở thành hy vọng. Nhưng thưa Đức Thánh cha, hy vọng ấy cần được nâng đỡ, cần được ủi an và đồng hành.

Con xin làm chứng thay cho một dân tộc vô hình, cho những người đàn ông và phụ nữ tiếp tục yêu mến Thiên Chúa trong thinh lặng, ngay cả khi cuộc đời đã tước đi của họ mọi thứ. Con đứng đây thay cho những gia đình đã mất tất cả, thay cho những người trẻ chỉ nhìn thấy tương lai trong việc bỏ trốn, thay cho những trẻ em lớn lên giữa hai biên giới nhưng vẫn giữ được ánh sáng đức tin trong đôi mắt.

Kính thưa Đức Thánh cha, con xin ngài một lời, một phép lành, một dấu chỉ cho họ cảm nhận rằng họ không bị quên lãng. Vì đôi khi, chỉ một lời từ Đấng Chăn Chiên Tối Cao cũng đủ khơi lại niềm hy vọng nơi những nơi tưởng như đã hoàn toàn tuyệt vọng.

Hai chứng từ còn lại của một nữ tu Dimma, Dòng thánh Phaolô, Giám đốc một trường Công giáo, chị giáo dân Loren người Philippines sống tại Liban từ 16 năm nay và giúp đỡ những người di dân và tị nạn, sau cùng là một linh mục dòng thánh Vinh Sơn Phaolô, tuyên úy nhà tù.

Huấn từ của Đức Thánh cha

Sau khi bài Tin mừng được xướng lên bằng tiếng Arap (Ga 19,25-27), thuật lại lời Chúa Giêsu trên thánh giá trăng trối thánh Gioan cho Mẹ của Người: “Này là mẹ của con! Này là con của Mẹ!” Đức Thánh cha đã ban huấn từ.

Đức Thánh cha nhấn mạnh chủ đề chuyến viếng thăm: “Phúc thay ai xây dựng hòa bình” (Mt 5,9), và khẳng định Giáo hội tại Liban - với sự đa dạng nhưng hiệp nhất - là một biểu tượng sống động của lời mời gọi này. Trích lời thánh Gioan Phaolô II, Đức Thánh cha nhắc lại rằng người Kitô tại Liban được mời gọi trở thành những người gìn giữ hy vọng, tạo nên bầu khí huynh đệ và nuôi dưỡng sức mạnh của tha thứ và lòng thương xót.

Từ những chứng từ đã được lắng nghe, Đức Thánh cha cảm ơn sự trung tín của cộng đoàn trong việc xây dựng hiệp thông giữa thử thách. Ngài nhắc đến hình ảnh thinh lặng cầu nguyện của thánh Charbel và ý nghĩa biểu tượng của Đền Harissa như dấu chỉ hiệp nhất. Chính trong việc đứng bên Mẹ Maria dưới chân Thánh Giá mà người tín hữu tìm thấy sức mạnh để hy vọng giữa tiếng súng đạn và những khó khăn thường nhật.

Trong logo chuyến viếng thăm tại Liban có hình ảnh chiếc mỏ neo, biểu tượng của đức tin vững chắc gắn chặt với trời cao. Trích lời Đức Phanxicô, ngài mời gọi mọi người hãy “bám chặt vào sợi dây của đức tin”, để có thể yêu thương và trao ban vô điều kiện, từ đó xây dựng hòa bình bền vững.

Đức Thánh cha nhắc đến chứng tá của cha Youhanna tại làng Debbabiyé, nơi giữa bom đạn và thiếu thốn, người dân Kitô giáo, Hồi giáo và người tị nạn vẫn sống hòa thuận. Hình ảnh đồng tiền Syria trong túi quyên góp cùng với tiền Liban nhắc rằng trong đức ái ai cũng có điều để cho và cũng có điều để nhận. Trích lời Đức Biển Đức XVI, ngài nhấn mạnh chỉ có tình yêu - chứ không phải hận thù, trả thù hay chia rẽ - mới mang lại chiến thắng thật sự và giúp con người không bị đè bẹp bởi bất công.

Đức Thánh cha đặc biệt lưu ý trách nhiệm của Giáo hội đối với giới trẻ: cần tạo điều kiện cho họ tham gia vào đời sống Giáo hội, đồng thời mở ra cho họ những cơ hội thực tế để xây dựng tương lai trong bối cảnh đầy khó khăn của đất nước.

Đức Thánh cha cảm kích chứng tá của chị Loren, người Philippines, trong việc đồng hành với người di dân. Câu chuyện đau thương của những nạn nhân chiến tranh, như James và Lela, cho thấy hậu quả khủng khiếp của bạo lực và nhắc nhở rằng Giáo hội không thể dửng dưng trước nỗi đau ấy. Ngài kêu gọi đừng để người tị nạn cảm thấy bị loại trừ, nhưng phải được đón chào bằng lời: “Chào mừng về nhà!”.

Chứng tá của nữ tu Dima - người đã quyết định ở lại mở trường đón người tị nạn và gieo hy vọng - cho thấy giáo dục là truyền thống quý giá của Giáo hội Liban. Đức Thánh cha khích lệ tiếp tục dấn thân giáo dục, đặc biệt cho người nghèo và người bị bỏ rơi, kết hợp đào tạo trí tuệ với giáo dục con tim. Ngài cũng nhắc đến lời chứng của cha Charbel trong mục vụ nhà tù, nơi ngài nhận ra khuôn mặt đầy thương xót của Chúa nơi những người bị giam giữ.

Sau cùng, Đức Thánh cha nói về ý nghĩa của “Nhành Hoa Hồng vàng” được ngài tặng Đền thánh, đặt trước ảnh tượng Đức Mẹ: đó là lời mời gọi mỗi người trở nên “hương thơm của Chúa Kitô”, giống như bữa ăn Liban phong phú nhiều hương vị - biểu tượng của sự hiệp nhất trong đa dạng.

Đức Thánh cha kết thúc với lời mời gọi sống tình yêu thương hiệp nhất hằng ngày, như nền tảng của hòa bình và hy vọng cho tương lai Liban.

Cuộc gặp gỡ được tiếp tục với bài ca Magnificat, kinh Lạy Cha và phép lành của Đức Thánh cha. Ngài trở về Tòa Sứ thần Tòa Thánh gần đó để gặp gỡ và dùng trưa với các vị Thượng phụ Công giáo Đông phương, cùng với các vị Thượng phụ Chính thống ở địa phương. Bốn hồng y trong đoàn tùy tùng của Đức Thánh cha cũng tham dự.

Trực tiếp

Livesteam thumbnail