Công bố Văn kiện của Bộ Giáo lý Đức tin về Đức Mẹ
Như đã đưa tin, sáng ngày 04 tháng Mười Một vừa qua, Văn kiện mới của Bộ Giáo lý Đức tin, mang tựa đề “Mater Populi Fidelis”, Mẹ của Dân trung tín, - Ghi chú đạo lý về một số tước hiệu của Đức Mẹ Maria liên quan đến sự cộng tác của Mẹ trong công trình cứu độ” đã được công bố trong cuộc họp báo tại Phòng báo chí Tòa Thánh.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Văn kiện mang chữ ký của Đức Hồng y Tổng trưởng Víctor Manuel Fernández, và Đức Tổng giám mục Armando Matteo, Tổng thư ký của Bộ, đã được Đức Thánh cha Lêô phê chuẩn ngày 07 tháng Mười trước đó, và truyền công bố.
Văn kiện dài 38 trang, sau Lời giới thiệu và dẫn nhập, Văn kiện trình bày sự cộng tác của Đức Mẹ Maria trong công trình cứu độ, rồi bàn đến các tước hiệu liên quan đến sự cộng tác của Đức Maria trong ơn cứu độ, như: Đấng Đồng Công Cứu Chuộc, Đấng Trung Gian, Mẹ các tín hữu, Mẹ chuyển cầu, Mẹ của ân sủng, Người môn đệ đầu tiên, Mẹ của Dân trung tín, Mẹ ân phúc...
Lời giới thiệu
Trong lời giới thiệu, Bộ Giáo lý Đức tin cho biết: “Ghi chú này được soạn nhằm đáp lại nhiều câu hỏi và đề nghị đã được gửi đến Tòa Thánh trong những thập niên gần đây - đặc biệt là đến Bộ Giáo lý Đức tin - về các vấn đề liên quan đến lòng sùng kính Đức Maria, nhất là liên quan đến một số tước hiệu được gán cho Mẹ. Đây là những vấn đề từng gây quan tâm cho các vị Giáo hoàng gần đây và đã được bàn thảo nhiều lần trong suốt ba mươi năm qua, trong các hoạt động học thuật khác nhau của Bộ, như các hội nghị, các phiên họp thường kỳ, v.v. Nhờ đó, Bộ đã tích lũy được một khối lượng tư liệu phong phú và quý giá làm nền tảng cho bản suy tư này.
Chủ đích của Văn kiện
“Văn kiện này nhằm làm sáng tỏ trong ý nghĩa một số danh hiệu và cách diễn tả liên quan đến Đức Maria có thể được chấp nhận hoặc không, đồng thời đào sâu những nền tảng đúng đắn của lòng sùng kính Đức Mẹ, xác định vị trí của Mẹ trong tương quan với các tín hữu dưới ánh sáng của mầu nhiệm Chúa Kitô - Đấng Trung Gian và Cứu Chuộc duy nhất. Điều này đòi hỏi một sự trung thành sâu xa với căn tính Công giáo, đồng thời cũng đòi hỏi một nỗ lực đại kết đặc biệt. Chủ đề chính xuyên suốt toàn bộ tài liệu này là tình mẫu tử của Đức Maria đối với các tín hữu - một chủ đề được lặp lại nhiều lần, mỗi lần lại được đào sâu, phong phú và hoàn thiện thêm, như một vòng xoáy liên tục của suy tư thần học.
Kho tàng thiêng liêng của Giáo hội
“Lòng sùng kính Đức Mẹ, được khơi dậy từ tình mẫu tử của Mẹ, được trình bày ở đây như một kho tàng thiêng liêng của Hội thánh. Mục đích Văn kiện này không phải là để sửa chữa lòng đạo đức của dân Chúa - lòng đạo đức vốn nhìn thấy nơi Mẹ là nơi nương náu, nguồn sức mạnh, sự dịu dàng và niềm hy vọng - nhưng là để đề cao, nhận ra vẻ đẹp của lòng sùng kính ấy và cổ võ nó, bởi vì đó là một biểu hiện huyền nhiệm và biểu tượng của thái độ Tin mừng, là tin tưởng vào Thiên Chúa, do chính Chúa Thánh Thần tự do khơi dậy trong lòng các tín hữu. Thật vậy, người nghèo “gặp được sự dịu hiền và tình yêu của Thiên Chúa nơi dung nhan của Maria. Nơi Mẹ, họ nhìn thấy phản chiếu sứ điệp cốt lõi của Tin mừng.”
Vấn đề
Bộ Giáo lý Đức tin nhận xét rằng: “Bên cạnh đó, cũng có một số nhóm suy tư thần học về Đức Mẹ, các ấn phẩm, những hình thức sùng kính mới hoặc những lời kêu gọi thiết lập các tín điều về Đức Maria, vốn không mang những đặc điểm đơn sơ và sống động như lòng đạo đức bình dân, nhưng thay vào đó đề xuất những phát triển tín lý nhất định và thường xuyên được phổ biến mạnh mẽ trên các phương tiện truyền thông, khiến nhiều tín hữu đơn sơ cảm thấy hoang mang. Đôi khi, đó là sự diễn giải lại những cách nói của quá khứ với những ý nghĩa khác.
Vì thế, tài liệu này xem xét các đề nghị ấy để chỉ ra, trong ý nghĩa nào, một số điều có thể được xem là diễn tả chân thực của lòng sùng kính Đức Mẹ được soi sáng do Tin mừng, và trong ý nghĩa nào, những điều khác nên tránh, vì chúng không giúp đạt được một sự hiểu biết quân bình và hài hòa về toàn bộ sứ điệp Kitô giáo.
Ngoài ra, trong nhiều đoạn của Ghi chú này, có kèm theo những phần đào sâu Kinh thánh phong phú, cho thấy rằng lòng sùng kính đích thực dành cho Đức Maria không chỉ bắt nguồn từ Truyền thống của Hội thánh, nhưng đã có nền tảng ngay trong Thánh kinh. Bên cạnh đó, tài liệu còn trích dẫn các văn bản của các Giáo phụ, các Tiến sĩ Hội thánh và các Giáo hoàng gần đây. Như thế, thay vì đặt ra giới hạn, Ghi chú này mong muốn đồng hành và nâng đỡ tình yêu đối với Đức Maria, cũng như củng cố niềm tin tưởng vào sự chuyển cầu mẫu tử của Mẹ.”
Một số danh hiệu
Trong một phần kế tiếp của Văn kiện, Bộ Giáo lý Đức tin trình bày một số danh hiệu liên quan đến sự cộng tác của Đức Maria trong công trình cứu độ và viết:
16. Trong số những danh hiệu được dùng để khẩn cầu Đức Maria (Mẹ Thương Xót, Niềm Hy Vọng của người nghèo, Đấng Phù hộ các Kitô hữu, Đấng Cứu Giúp, Đấng Bầu Cử, v.v.), có một số danh hiệu nói đến cách đặc biệt hơn về sự cộng tác của Mẹ trong công trình cứu chuộc của Chúa Kitô, chẳng hạn như “Đấng Đồng Công Cứu Chuộc” và “Đấng Trung Gian”.
Đấng Đồng Công Cứu Chuộc
17. Danh hiệu Corredentrice - Đấng Đồng Công Cứu Chuộc - xuất hiện vào thế kỷ XV như là một sự điều chỉnh của lời khẩn cầu Redentrice (Đấng Cứu Chuộc) - một cách viết tắt của “Mẹ của Đấng Cứu Chuộc”, vốn đã được dùng để gọi Đức Maria từ thế kỷ X. Thánh Bênađô đã gán cho Đức Maria một vai trò đặc biệt dưới chân thánh giá; vai trò này là nguồn gốc của danh hiệu “Đấng Đồng Công Cứu Chuộc”. Danh hiệu này lần đầu tiên được tìm thấy trong một bài thánh ca vô danh ở Salzburg bên Áo, vào thế kỷ XV.
Tuy danh hiệu “Đấng Cứu Chuộc” vẫn còn được sử dụng trong các thế kỷ XVI và XVII, nhưng đến thế kỷ XVIII, danh hiệu này hoàn toàn biến mất và được thay thế bằng “Đấng Đồng Công Cứu Chuộc”. Cuộc nghiên cứu thần học về sự cộng tác của Đức Maria trong công trình Cứu Chuộc, đặc biệt trong nửa đầu thế kỷ XX, đã dẫn đến sự hiểu biết sâu sắc hơn về ý nghĩa của danh hiệu “Đấng Đồng Công Cứu Chuộc”.
18. Một số vị Giáo hoàng đã sử dụng danh hiệu này nhưng không đi sâu vào việc giải thích. Thông thường, các ngài trình bày nó theo hai cách:
- 1. Liên hệ với thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa - bởi vì Đức Maria, với tư cách là Mẹ, đã làm cho công cuộc cứu chuộc của Chúa Kitô trở nên khả thi;
- 2. Thứ hai liên hệ với sự liên kết của Mẹ với Chúa Kitô bên cạnh Thánh Giá cứu độ.
Công đồng chung Vatican II đã tránh dùng danh hiệu “Đấng Đồng Công Cứu Chuộc” vì những lý do liên quan đến tín lý, mục vụ và đại kết. Thánh Gioan Phaolô II đã dùng danh hiệu này ít nhất bảy lần, chủ yếu trong bối cảnh nói về giá trị cứu độ của đau khổ con người, khi được hiến dâng cùng với đau khổ của Chúa Kitô mà Đức Maria đã kết hiệp cách đặc biệt dưới chân thánh giá.
19. Ngày 21 tháng Hai năm 1996, Đức Hồng y Joseph Ratzinger, khi đó là Tổng Trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, đã được hỏi về việc phong trào “Vox Populi Mariae Mediatrici”, Tiếng nói dân của Mẹ Trung Gian, xin định tín tín điều “Đức Maria là Đấng Đồng Công Cứu Chuộc hoặc là Đấng Trung Gian của mọi ân sủng”. Ngài đã trả lời trong bản ý kiến riêng của mình như sau: “Không chấp thuận (Negative). Ý nghĩa chính xác của các danh hiệu này chưa rõ ràng và giáo lý được bao hàm trong đó chưa đủ chín muồi. Một giáo lý được định tín đức tin thần linh (de fide divina) phải thuộc về kho tàng đức tin (depositum fidei), tức là mạc khải của Thiên Chúa được truyền lại trong Thánh kinh và Truyền thống Tông đồ. Hiện nay vẫn chưa thấy rõ ràng làm thế nào những giáo lý được diễn tả qua các danh hiệu này lại hiện diện trong Thánh kinh và Truyền thống Tông đồ.”
Sau đó, vào năm 2002, Đức Hồng y Ratzinger công khai bày tỏ lập trường phản đối việc sử dụng danh hiệu này: “Công thức “Đấng Đồng Công Cứu Chuộc” xa rời quá nhiều so với ngôn ngữ của Thánh kinh và của các Giáo phụ, do đó dễ gây hiểu lầm... Mọi sự đều đến từ Ngài (Chúa Kitô), như đặc biệt được khẳng định trong các thư gửi tín hữu Êphêsô và Côlôxê. Đức Maria là như thế nào là nhờ Ngài. Danh hiệu “Đấng Đồng Công Cứu Chuộc” có thể làm lu mờ nguồn gốc ấy.”
Đức Hồng y Ratzinger không phủ nhận rằng có những ý hướng tốt đẹp và những giá trị quý báu trong việc đề xuất sử dụng danh hiệu này, nhưng ngài cho rằng đó là “một cách diễn đạt sai lầm”.
20. Khi ấy, Đức Hồng y Joseph Ratzinger đã nhắc đến các thư gửi tín hữu Êphêsô và Côlôxê, trong đó ngôn ngữ được sử dụng và động lực thần học của các bài thánh thi cho thấy vị trí trung tâm duy nhất của Chúa Kitô trong công trình cứu chuộc, cũng như nguồn mạch của mọi ân sủng đến từ Ngài. Điều đó loại trừ khả năng thêm vào bất cứ hình thức trung gian nào khác, bởi vì “mọi phúc lành thiêng liêng” được ban cho chúng ta “trong Chúa Kitô” (Ep 1,3); trong Ngài, “chúng ta được làm nghĩa tử” (x. Ep 1,5), và “được ân sủng của Thiên Chúa tuôn đổ trên chúng ta” (x. Ep 1,6). “Nhờ máu của Người, chúng ta được cứu chuộc” (Ep 1,7), và chính Người “đã tuôn đổ dư đầy ân sủng trên chúng ta” (Ep 1,8). Trong Ngài, “chúng ta được thừa hưởng phần gia nghiệp” (Ep 1,11) và được tiền định theo thánh ý Chúa. Thiên Chúa đã muốn cho “mọi sự viên mãn đều hiện diện trong Ngài” (Cl 1,19) và “nhờ Người, mọi sự trên trời và dưới đất được hòa giải với Thiên Chúa” (Cl 1,20).
Lời chúc tụng này về địa vị duy nhất của Chúa Kitô mời gọi chúng ta đặt mọi thụ tạo vào vị thế tiếp nhận ân sủng, đồng thời khuyên ta phải có sự cẩn trọng đạo đức và khiêm tốn khi bàn đến bất kỳ hình thức cộng tác nào có thể có trong phạm vi công trình cứu chuộc.
21. Đức Giáo hoàng Phanxicô ít nhất đã ba lần bày tỏ lập trường rõ ràng không chấp nhận việc sử dụng danh hiệu “Đấng Đồng Công Cứu Chuộc”, khẳng định rằng Đức Maria “không bao giờ muốn lấy điều gì của Con Mình cho riêng mình; Mẹ không bao giờ tự giới thiệu mình là Đấng Đồng Công Cứu Chuộc. Không, Mẹ là môn đệ.”
Công trình cứu chuộc đã được hoàn tất một cách trọn hảo, không cần bất cứ sự bổ sung nào. Do đó, “Đức Mẹ không hề muốn lấy mất của Chúa Giêsu bất cứ tước hiệu nào [...]. Mẹ không xin cho mình được coi là một thứ “gần như Đấng Cứu Chuộc” hay “Đấng Đồng Công Cứu Chuộc”: không. Chỉ có một Đấng Cứu Chuộc duy nhất, và danh hiệu ấy không thể được nhân đôi.”
Chúa Kitô “là Đấng Cứu Chuộc duy nhất; không có ai cùng cứu chuộc với Người”. Bởi vì “hy tế trên thánh giá, được dâng hiến với lòng yêu mến và vâng phục, đã mang lại một sự đền bù dư đầy và vô biên.” Dù chúng ta có thể tiếp nối và làm cho hiệu quả của ơn cứu chuộc lan rộng trong thế giới này (x. Cl 1,24), nhưng cả Hội thánh lẫn Đức Maria đều không thể thay thế hay hoàn thiện công trình cứu chuộc của Con Thiên Chúa nhập thể - công trình ấy đã hoàn hảo và không cần thêm điều gì.
22. Vì cần phải giải thích rõ vai trò phụ thuộc của Đức Maria đối với Đức Kitô trong công trình cứu chuộc, nên việc sử dụng danh hiệu “Đấng Đồng Công Cứu Chuộc” để diễn tả sự cộng tác của Mẹ luôn là điều không thích hợp. Danh hiệu này có nguy cơ làm lu mờ vai trò trung gian duy nhất của Chúa Kitô trong công trình cứu độ, và do đó có thể gây nên sự nhầm lẫn hoặc mất cân đối trong sự hài hoà của các chân lý đức tin Kitô giáo.
Bởi vì “dưới bầu trời này, không có một danh nào khác được ban cho loài người để nhờ danh ấy mà chúng ta được cứu độ” (Cv 4,12). Khi một cách diễn đạt cần phải kèm theo vô số lời giải thích liên tục để tránh bị hiểu sai, thì điều đó không còn phục vụ cho đức tin của Dân Chúa nữa, và trở nên không thích hợp.
Trong trường hợp này, việc dùng danh hiệu ấy cũng không giúp tôn vinh Đức Maria như là cộng tác viên đầu tiên và cao cả nhất trong công trình cứu chuộc và ân sủng; trái lại, vì có nguy cơ làm lu mờ vai trò độc nhất của Đức Giêsu Kitô - Con Thiên Chúa làm người vì ơn cứu độ chúng ta, Đấng duy nhất có thể dâng lên Chúa Cha một hy tế có giá trị vô hạn - nên điều đó không phải là một vinh dự đích thực dành cho Đức Mẹ. Thật vậy, Đức Maria, với tư cách là “nữ tỳ của Chúa” (Lc 1,38), luôn chỉ cho chúng ta đến với Chúa Kitô và mời gọi chúng ta: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5).
(Sala Stampa 4-11-2025)