Giáo hội Công giáo Anh quốc vui mừng vì thánh John Henry Newman được tôn phong Tiến sĩ Hội Thánh

Fot. Mazur/cbcew.org.uk
Đức Hồng y Vincent Nichols, Tổng giám mục Westminster, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Anh quốc, bày tỏ vui mừng đặc biệt vì quyết định của Đức Thánh cha sẽ tôn phong thánh John Henry Newman làm Tiến sĩ Hội Thánh hoàn vũ.

G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA

Phòng Báo chí Tòa Thánh thông báo quyết định trên đây của Đức Thánh cha Lêô XIV, trong thông cáo ngày 31 tháng Bảy vừa qua, theo đó ngài đã phê chuẩn ý kiến thuận của các hồng y và giám mục thành viên trong phiên họp toàn thể của Bộ Phong thánh, về việc tôn thánh John Henry Newman làm Tiến sĩ của Hội Thánh Công giáo. Trong tuyên ngôn đặc biệt, ngày 01 tháng Tám vừa qua, Đức Hồng y Nichols nói rằng: “Quyết định này của Đức Thánh cha có nghĩa là các tác phẩm của thánh Newman là một sự biểu lộ đích thực đức tin của Giáo hội, một sự hỗ trợ mạnh mẽ cho tất cả những người không những đề cao kiến thức uyên thâm của thánh nhân, nhưng còn nêu cao đời sống thánh thiện anh hùng của người, trong việc bước theo tiếng gọi của Chúa Kitô trong hành trình đức tin”.

Về phần Đức cha Bernard Longley, Tổng giám mục Giáo phận Birmingham, Phó Chủ tịch Hội đồng Giám mục Anh quốc, ngài nói: thật là một điều ngoại thường vì những tác phẩm của thánh Newman, như một tín hữu Anh giáo và sau đó trở thành Công giáo, xét một cách tổng quát, đã dẫn thánh nhân đến chỗ được tôn làm Tiến sĩ Hội Thánh”.

Đức Tổng giám mục bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Đức Thánh cha Lêô vì quyết định này, đồng thời nhận xét rằng thánh Newman là người Anh thứ ba được nhận tước hiệu này, sau thánh Bêđa-đáng kính và thánh Anselmô thành Canterbury.

Đức Tổng giám mục Nichols nhắc lại rằng việc xin phong Tiến sĩ Hội Thánh cho thánh John Newman đã được đệ trình Tòa Thánh từ lâu và được sự ủng hộ rộng rãi từ nhiều nơi trên thế giới.

Những nét nổi bật trong cuộc đời và hoạt động của thánh Newman

Thánh Newman sinh năm 1801 tại Anh quốc và qua đời năm 1890, thọ 89 tuổi. Ngài từ Anh giáo trở lại Công giáo và được coi là một trong nhưng tư tưởng gia Kitô giáo lớn nhất trong các thế kỷ gần đây.

Tiến trình từ Anh giáo đến Công giáo

Tiến trình trở lại Công giáo của mục sư Newman bắt đầu từ mùa hè năm 1839: mục sư Newman lợi dụng thời giờ rảnh rỗi để nghiên cứu lịch sử Giáo hội hồi thế kỷ thứ V và cuộc khủng hoảng đưa tới Công đồng chung Calcedonia, hồi năm 451. Mục sư khám phá thấy rằng Euthychè lạc giáo và những người theo thuyết nhất thể (monophysites), Chúa Kitô chỉ có một bản tính, lập luận trước giáo huấn của thánh Giáo hoàng Lêô Cả và của Công đồng theo cùng một thể thức như lập luận về sau này được phía Tin lành và Anh giáo sử dụng, đứng trước Công đồng chung Trentô. Thực vậy, nhóm nhất thể và những người Tin lành cũng như Anh giáo phủ nhận giáo huấn của Công đồng, viện cớ rằng giáo huấn này trái ngược với giáo huấn chứa đựng trong Kinh Thánh và trong Truyền thống, hoặc ít là, họ viện cớ giáo huấn ấy vượt quá giới hạn của các giáo huấn xưa kia.

Một khám phá thứ hai trong tiến trình trở lại Công giáo của mục sư Newman diễn ra ít lâu sau năm 1839: đó là nguyên tắc đã được thánh Augustinô đề ra hồi thế kỷ thứ IV, trong cuộc tranh luận với các tín hữu Kitô ly khai. Nguyên tắc đó thế này: “Mọi người có lý mà khẳng định rằng những người xa lìa thế giới Kitô thì sai lầm hoàn toàn”. Trong thế kỷ thứ IV rồi thế kỷ thứ V, rất nhiều tín hữu Kitô tách rời khỏi trung tâm Kitô giáo, nghĩa là Tòa Thánh. Đó là những người theo lạc giáo Nestôriô, những người theo thuyết nhất thể. Nguyên tắc do thánh Augustinô đề ra giúp kết luận tiên thiên rằng đám người ấy là sai lầm. Về phần Tòa Thánh Roma, Newman nhận thấy rằng Tòa Thánh vẫn là trung tâm của thế giới Kitô giáo, hồi thế kỷ thứ XIX cũng như hồi thế kỷ thứ XVI và thế kỷ thứ V.

Trở lại

Mục sư Newman khám phá các chân lý trên đây hồi năm 1839, nhưng mãi sáu năm sau, nghĩa là đến năm 1845, Newman mới trở lại Công giáo, vì có một chướng ngại cũ vẫn còn, theo đó mục sư cho rằng Roma dạy những điều không đúng và làm cho người ta hành động không đúng. Vì thế, gia nhập Công giáo có nghĩa là thỏa hiệp với điều xấu ấy. Mục sư Newman đứng trước một trường hợp khó khăn. Nhưng rồi đã ra khỏi được tình trạng đó nhờ đọc các sách do cha Russell, Giáo sư tại Đại chủng viện Maynooth ở Ailen cung cấp. Cha Russell cho Newman đọc những sách đạo đức dành cho dân thường. Nhờ đó, Newman thấy rằng giáo huấn Công giáo dành cho dân Công giáo không phải là việc tôn thờ ngẫu tượng hoặc mê tín như trước đó ông vẫn tưởng.

Trước khi gia nhập Công giáo, mục sư Newman đã viết cuốn sách thời danh “Khảo luận về sự phát triển tín lý”. Sở dĩ Newman viết cuốn này là vì trong tư cách là nhà thần học, ông thiết nghĩ có một bổn phận lương tâm phải kiểm chứng. Tuy nhiên, sau khi mục sư thấy rõ đầy đủ thì liền xin gia nhập Công giáo ngay mà không đợi cho đến khi hoàn thành cuốn sách.

Trong sách này, nhà thần học Newman cũng trả lời một vấn nạn trước kia đã đưa ra để trách cứ Roma đã thay đổi tín lý. Câu trả lời của Newman ở đây thật là sáng sủa và đơn sơ: để trung thành trọn vẹn với một dữ kiện mạc khải, cần phải đề ra những sự xác định, làm sáng tỏ khi nảy sinh những vấn đề mới. Vì thế, hồi thế kỷ thứ V, đứng trước lạc giáo bấy giờ, Công đồng chung Calcedonia thấy cần phải định tín và xác định đó là “sự diễn tả đích thực duy nhất của đạo lý chính tông”. Lịch sử sau đó đã xác nhận điều ấy. Thuyết nhất thể phát sinh từ lòng nhiệt thành thần bí, từ một ý chí quyết liệt trung thành với giáo huấn của thánh Cirilo thành Alessandria. Nơi ngài, người ta gặp thành ngữ “monophysis” có nghĩa là một bản tính. Nhưng theo thánh nhân, từ physis = bản tính chưa có nghĩa chính xác như về sau này. Khi dạy rằng, trong Chúa Kitô, có hai bản tính, trong thực tế chính Công đồng chung Calcedonia đã trung thành với thánh Cirilo. Đáng tiếc là những người phủ nhận giáo huấn đó, quá nhiều khi tỏ ra một sự yếu đuối, có thể nói là về cơ chế, thúc đẩy họ đi theo lạc giáo.

Vốn biết rõ lịch sử Giáo hội, mục sư Newman biết trước có những khó khăn chờ đón mình sau khi gia nhập Công giáo. Và thực sự đã xảy ra như vậy. Thậm chí, người ta còn nghi ngờ Newman lạc giáo. Tuy Đức Lêô XIII bổ nhiệm ngài làm Hồng y, nhưng điều này chỉ diễn ra vào năm 1879, tức là 34 năm sau khi Newman trở lại Công giáo.

Trong một thư hồi năm 1868, tức là hơn 20 năm sau khi trở lại, cha Newman viết: “Trong Công giáo có một chiều sâu và một sức mạnh, trong tín lý của đạo có thần học, các nghi thức, các bí tích, và trong kỷ luật của đạo có một sự sung mãn làm cho chúng ta được tràn đầy; trong đạo có một tự do, nhưng cũng có một nâng đỡ, so với những điều đó, sự lơ là của con người đối với chúng ta, dù là những người ở địa vị cao nhất, mà chúng ta có thể là nạn nhân những hiểu lầm của họ, không đáng kể là gì. Đó thực là bí quyết sức mạnh của Giáo hội, nguyên tắc về sự không thiếu sót của Giáo hội, và mối dây đảm bảo sự hiệp nhất không thể phá vỡ của Giáo hội. Đó thực là khởi đầu của an bình thiên quốc”.

Khó khăn và chống đối

Sau khi trở lại Công giáo, cha Newman cũng gặp nhiều khó khăn và chống đối, nếu không muốn nói là đố kỵ. Thiên tài thần học của ngài, chủ trương đề cao quyền tối thượng của lương tâm trên mọi chủ trương duy tín điều, đã khơi lên những ghen tuông và ngờ vực. Cả trong hàng giáo phẩm Công giáo bấy giờ không thiếu những người cho rằng cha Newman không có đủ đặc tính “Roma” và không cứng rắn đủ đối với Anh giáo mà cha đã từ bỏ. Cha Newman đã vượt qua được những thử thách đó, và luôn chủ trương rằng “10.000 khó khăn cũng không tạo nên một nghi ngờ, nếu tôi hiểu rõ vấn đề”.

Cha John Henry Newman, người đã giữ vai chính trong đời sống văn hóa ở Oxford, nay bị gạt ra ngoài lề trong Công giáo, vì người ta trách cứ cha không thực hiện đủ cuộc trở lại. Ngài viết: “Đối với tôi, các cuộc trở lại không phải là công việc thiết yếu, nhưng đúng hơn là việc “xây dựng cho các tín hữu Công giáo”.

Cha Newman gia nhập Dòng thánh Philipphê Neri và định cư tại thành phố Birmingham. Tại đây, ngài cũng thành lập một nhà của dòng. Cha Newman, nhà đại tư tưởng, nhà trí thức xuất sắc, sống cạnh những lầm than của các khu xóm lụp xụp, trong một môi trường Giáo hội, trong đó có ít người được học hành, và chính từ đó, ơn thánh Chúa nơi ngài bắt đầu gieo vãi đầy tay. Cha Newman viết: “Chiến thắng đích thực của Tin mừng hệ tại điều này là: khi nâng cao con người thuộc mọi tầng lớp lên trên bản thân họ và lên trên bản tính con người, khi kiến tạo sự cộng tác kỳ diệu của ý chí với ơn thánh, đó là nên thánh: đó chính là sự sáng tạo đích thực của Tin mừng và của Giáo hội”.

Những vấn nạn trong Công giáo chống cha Newman chỉ chấm dứt sau khi Đức Giáo hoàng Lêô XIII phong cha làm Hồng y vào năm 1879, khi cha sắp tròn 80 tuổi. Việc bổ nhiệm này được coi như một sự nhìn nhận công trình, các tác phẩm và vai trò cao quý của cha.

Khi Đức Hồng y Newman qua đời năm 1890, Giáo hội Công giáo tại Anh quốc ở trong giai đoạn tái triển nở, sau ba thế kỷ bị bách hại và bị gạt ra ngoài lề xã hội.

Đức Hồng y Newman đã ảnh hưởng lớn trên nhiều thế hệ các tín hữu Công giáo Anh quốc, trong đó có rất nhiều người trở lại. Ngài cũng ảnh hưởng trên đại truyền thống văn hóa Công giáo tại các nước Anglo Saxon, với những tác giả tên tuổi, như Chesterton, Belloc, Tolkien, Bruce Marshall và bao nhiêu người khác nữa.

(Tổng hợp 4-8-2025)