Tiếp kiến chung của Đức Thánh cha: Suy niệm về cái chết dạy chúng ta biết chọn điều thật sự nên làm với cuộc đời mình
Sáng thứ Tư, ngày 10 tháng Mười Hai vừa qua, lúc gần 10 giờ, Đức Thánh cha Lêô XIV đã tiếp kiến chung gần hai mươi ngàn tín hữu hành hương, tại Quảng trường Thánh Phêrô. Hiện diện trong dịp này, có hơn hai mươi giám mục từ các nước.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Như thường lệ, sau khi tiến qua các lối đi để chào thăm mọi người, chúc lành cho các em bé, Đức Thánh cha tiến lên lễ đài và bắt đầu buổi tiếp kiến, với phần công bố Lời Chúa qua đoạn Tin mừng theo thánh Luca, đoạn 23: (Lc 23,52-54)
[Ông Giuse người Arimathê] đến gặp quan Philatô và xin thi hài Chúa Giêsu. Ông hạ Người xuống khỏi thập giá, lấy khăn liệm bọc lại và đặt vào một ngôi mộ đục trong đá, nơi chưa có ai được chôn cất. Hôm ấy là ngày Áp Lễ và ánh sáng ngày Sabát đã bắt đầu chiếu rạng”.
Huấn giáo
Trong bài huấn giáo tiếp đó, Đức Thánh cha tiếp tục loạt bài giáo lý Năm Thánh, về “Chúa Giêsu Kitô niềm hy vọng của chúng ta”. Chương IV về sự phục sinh của Chúa Giêsu và những thách đố của thế giới ngày nay. Bài huấn giáo này là bài thứ bảy của chương này và có tựa đề là: “Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô: lời giải đáp chung cục cho thắc mắc về cái chết của chúng ta”.
Đức Thánh cha nói: Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Mầu nhiệm sự chết luôn gợi lên nơi con người những vấn nạn sâu xa. Thật vậy, cái chết xuất hiện như biến cố tự nhiên nhất, nhưng đồng thời là điều nghịch lý nhất. Nó là điều tự nhiên, vì mọi sinh vật trên trái đất đều phải chết. Nó lại nghịch lý, bởi khát vọng sống và vĩnh cửu mà chúng ta cảm nhận cho chính mình và cho những người ta yêu thương khiến chúng ta nhìn cái chết như một sự kết án, như một điều “phi lý”.
Nhiều dân tộc cổ xưa đã phát triển các nghi lễ và tập tục gắn với việc tôn kính người đã khuất, để tiễn đưa và tưởng nhớ những ai bước vào mầu nhiệm tột cùng. Ngày nay, người ta lại ghi nhận một xu hướng khác: cái chết dường như trở thành một thứ cấm kỵ, một biến cố cần tránh xa; một điều chỉ nên nói khẽ, để khỏi làm xáo trộn sự nhạy cảm và bình an của chúng ta. Vì thế, người ta cũng thường tránh đến nghĩa trang, nơi những người đi trước đang an nghỉ chờ ngày phục sinh.
Ý nghĩa sự chết
Vậy cái chết là gì? Nó có thật là lời cuối cùng về cuộc đời chúng ta không? Chỉ con người mới đặt câu hỏi này, vì chỉ con người biết mình phải chết. Nhưng sự ý thức ấy không cứu chúng ta khỏi cái chết; trái lại, theo nghĩa nào đó, nó khiến chúng ta “nặng trĩu” hơn mọi loài sống khác. Động vật chịu đau đớn và chắc chắn nhận ra khi cái chết gần kề, nhưng chúng không biết rằng cái chết là một phần định mệnh của chúng; chúng không tự hỏi về ý nghĩa, mục đích hay kết cục của đời mình.
Khi nhận thấy điều đó, người ta có thể cho rằng chúng ta là những thụ tạo đầy nghịch lý, bất hạnh không chỉ vì chúng ta phải chết, nhưng còn vì chúng ta chắc chắn biết rằng biến cố đó sẽ xảy ra, dù không biết cách nào và lúc nào. Chúng ta thấy mình vừa ý thức vừa bất lực. Có lẽ từ đây phát sinh xu hướng né tránh, chạy trốn vấn đề cái chết trong cuộc sống hiện sinh của con người.
Thánh Anphongsô Maria de’ Liguori, trong tác phẩm nổi tiếng “Chuẩn bị cho cái chết”, đã suy tư về giá trị giáo dục của cái chết, cho thấy nó là một người thầy vĩ đại của đời sống. Biết rằng cái chết tồn tại, và nhất là suy niệm về nó, dạy chúng ta biết chọn điều thật sự nên làm với cuộc đời mình. Cầu nguyện để hiểu điều gì ích lợi cho Nước Trời và buông bỏ những điều thừa thãi gắn chúng ta với cái phù vân - đó là bí quyết để sống chân thật, trong nhận thức rằng hành trình trên trần gian chuẩn bị chúng ta cho vĩnh cửu.
Thế nhưng, nhiều quan niệm nhân học đương thời hứa hẹn sự bất tử mang tính nội tại, lý thuyết hóa việc kéo dài sự sống trần thế nhờ công nghệ. Đây là viễn cảnh của chủ nghĩa hậu nhân loại (transhumanism), đang len lỏi vào những thách đố của thời đại chúng ta. Liệu cái chết có thể bị đánh bại nhờ khoa học hay không? Nhưng rồi, liệu chính khoa học có thể đảm bảo cho chúng ta rằng một đời sống không bao giờ chết, lại đồng thời là cuộc sống hạnh phúc hay không?
Biến cố Chúa Kitô Phục Sinh tỏ cho thấy rằng cái chết không đối nghịch với sự sống, nhưng là phần cấu thành của sự sống như một cuộc vượt qua dẫn tới sự sống đời đời. Lễ Vượt Qua của Chúa Giêsu cho chúng ta nếm trước - ngay trong thời gian còn đầy thử thách và đau khổ này - sự viên mãn sẽ đến sau cái chết.
Thánh sử Luca dường như nắm bắt được điềm báo ánh sáng trong bóng tối này giữa lúc vào cuối buổi chiều hôm ấy - lúc bóng tối bao trùm Đồi Sọ - ngài viết: “Hôm ấy là ngày Áp Lễ và ánh sáng ngày Sabát đã bắt đầu rực sáng” (Lc 23,54). Ánh sáng ấy, báo trước bình minh Phục sinh, đã tỏa chiếu trong bóng tối của bầu trời tưởng như còn đóng kín và lặng thinh. Những ánh sáng của ngày Sabát, lần đầu tiên và duy nhất, loan báo bình minh của ngày sau ngày Sabát: ánh sáng mới của sự Phục sinh. Chỉ biến cố ấy mới có thể soi sáng trọn vẹn mầu nhiệm cái chết. Trong ánh sáng này - và chỉ trong ánh sáng này - điều mà tâm hồn chúng ta hằng mong mỏi và hy vọng mới trở nên chân thật: rằng cái chết không phải là kết thúc, mà là cuộc vượt qua tiến vào ánh sáng viên mãn, vào hạnh phúc đời đời.
Đấng Phục Sinh đã đi trước chúng ta trong thử thách lớn lao của cái chết và đã chiến thắng nhờ sức mạnh của Tình Yêu Thiên Chúa. Như thế, Người đã chuẩn bị cho chúng ta nơi trú ngụ đời đời, ngôi nhà nơi chúng ta được mong đợi; Người ban cho chúng ta sự sống viên mãn không còn bóng tối hay mâu thuẫn.
Và Đức Thánh cha kết luận: “Nhờ Người, Đấng đã chết và sống lại vì tình yêu, cùng với thánh Phanxicô chúng ta có thể gọi cái chết là “chị”. Đón đợi cái chết trong niềm hy vọng chắc chắn vào sự Phục sinh giúp chúng ta thoát khỏi nỗi sợ bị hủy diệt mãi mãi và chuẩn bị cho niềm vui của sự sống vô tận.”
Chào thăm và nhắn nhủ
Bài giáo lý bằng tiếng Ý trên đây của Đức Thánh cha lần lượt được chín độc viên tóm lược bằng các sinh ngữ kèm theo những lời chào thăm và nhắn nhủ của Ngài.
Với các tín hữu nói tiếng Pháp, Đức Thánh cha nói: “Tôi thân ái chào thăm những người nói tiếng Pháp, đặc biệt các khách hành hương đến từ Pháp và nhất là từ Tổng Giáo phận Rennes cùng với Đức giám mục Pierre d’Ornellas. Anh chị em thân mến, trong thời gian Mùa Vọng này, chúng ta hãy xin Đấng Phục Sinh làm cho chúng ta trở nên những người canh thức, chuẩn bị và làm nhanh đến chiến thắng sau cùng của Triều Đại Người, Triều Đại của Tình Yêu. Xin Thiên Chúa chúc lành cho anh chị em!
Trong lời chào bằng tiếng Anh, Đức Thánh cha nhắc đến các tín hữu đến từ Anh quốc, xứ Wales, Mala, Australia, Nhật Bản, Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
Đặc biệt với các tín hữu Ba Lan, Đức Thánh cha nói: “Tôi thân ái chào thăm người Ba Lan! Đặc biệt, tôi chào ban tổ chức và tham dự viên của hội nghị dành cho sứ điệp hòa giải mà các giám mục Ba Lan đã gửi các giám mục Đức sáu mươi năm trước, một sứ điệp đã làm thay đổi lịch sử châu Âu. Những lời trong tài liệu ấy – “Chúng tôi tha thứ và xin được tha thứ” - ước gì trở thành chứng tá cho các dân tộc đang xung đột hôm nay rằng hòa giải và tha thứ là điều có thể, khi chúng phát sinh từ khát vọng chung về hòa bình và từ sự dấn thân chung, trong chân lý, vì thiện ích của nhân loại. Tôi ban phép lành cho tất cả anh chị em!
Sau cùng, bằng tiếng Ý, Đức Thánh cha nói: “Tôi thân ái chào mừng các tín hữu nói tiếng Ý. Đặc biệt, tôi chào các thành viên Gia đình đặc sủng Thánh Linh Camillian, Đơn vị Không quân Lục quân ở Viterbo, và nhiều nhóm tín hữu khác...
Sau cùng, tôi chào các bạn trẻ, các bệnh nhân và các đôi tân hôn. Hôm nay, chúng ta kính nhớ Đức Mẹ Maria ở Loreto. Các bạn trẻ thân mến, nơi trường học của Đức Maria, hãy học biết yêu thương và hy vọng; các bệnh nhân thân mến, xin Đức Mẹ là bạn đồng hành và an ủi anh chị em trong đau khổ; và anh chị em, các đôi tân hôn thân mến, hãy phó thác hành trình hôn nhân của mình cho Mẹ của Chúa Giêsu. Xin Chúa chúc lành cho tất cả anh chị em!
Buổi Tiếp kiến chung kết thúc với kinh Lạy Cha và phép lành của Đức Thánh cha.