Đức Thánh cha tôn phong bảy vị thánh mới

Lúc 10 giờ 30 sáng Chúa nhật, ngày 19 tháng Mười năm 2025, Đức Thánh cha Lêô XIV đã chủ sự thánh lễ tại Quảng trường Thánh Phêrô, với nghi thức tôn phong bảy chân phước lên bậc hiển thánh, trước sự tham dự của khoảng bảy mươi ngàn tín hữu, cùng với hơn bốn mươi hồng y, giám mục và sáu trăm linh mục đồng tế.

G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA

Ngoài ra, có sự hiện diện phái đoàn chính thức các nước có các vị thánh mới, trong đó có Tổng thống Sergio Mattarella và ông Fontana Chủ tịch Hạ viện Ý. Phái đoàn Tổng thống Liban và các phái đoàn chính thức.

Đây là lễ phong hiển thánh thứ hai Đức Thánh cha Lêô chủ sự, sau lễ phong hai thánh trẻ Pier Giorgio Frassati và Carlo Acutis, hôm Chúa nhật ngày 07 tháng Chín vừa qua.

Nghi thức phong thánh

Sau ca nhập lễ và lời chào phụng vụ của Đức Thánh cha, ca đoàn và cộng đoàn đã hát kinh Chúa Thánh Thần, rồi Đức Hồng y Marcello Semeraro, Tổng trưởng Bộ Phong thánh cùng với bảy vị thỉnh nguyện viên, tiến lên trước Đức Thánh cha xin ngài ghi tên bảy vị chân phước vào sổ bộ các thánh của Giáo hội, gồm một giám mục và một giáo dân tử đạo, ba nữ tu và ba giáo dân hiển tu: ba vị người Ý, hai từ Venezuela, hai vị còn lại người Armeni và Papua New Guinea.

Đức Hồng y Tổng trưởng lần lượt tóm lược vài nét nổi bật trong cuộc sống của các vị:

1. Lòng yêu mến Thánh Thể của chân phước Đức cha Maloyan

“Nếu người trẻ yêu mến thánh Carlo Acutis, người từng nói rằng Thánh Thể là “đại lộ dẫn đến thiên đàng”, thì họ cũng sẽ yêu mến chân phước Maloyan, người trước khi chịu tử đạo đã làm phép một mẩu bánh và chia sẻ cho 600 bạn tù cùng tử đạo với mình - Thánh Thể quả thật là lương thực đức tin của ngài,” cha Carlo Calloni, O.F.M., thỉnh nguyện viên của ngài, chia sẻ.

Ignazio Choukrallah Maloyan (1869-1915), Tổng giám mục người Armenia của Giáo phận Mardin, đã được thánh Gioan Phaolô II tuyên chân phước ngày 07 tháng Mười năm 2001, như một vị tử đạo đức tin.

Ngài “chăm sóc đoàn chiên được trao phó trong suốt 46 năm, và Giáo hội tôn phong ngài làm thánh vì đã hiến mạng sống cho đoàn chiên ấy.” Trong thời kỳ “Đại thảm họa” năm 1915, Đức cha Maloyan từ chối chối bỏ đức tin Kitô giáo và cải sang Hồi giáo.

Đặc sủng của ngài chính là “đã dâng lại cho Thiên Chúa chính sự sống mà mình đã nhận được từ Chúa, và luôn trung thành với mọi ân sủng Thiên Chúa ban, kể cả ân sủng tử đạo”.

2. To Rot bảo vệ hôn nhân bằng giá máu

“Chân phước Phêrô To Rot, một giáo dân, bị giết vì đã bảo vệ hôn nhân vào năm 1945”.

Trong Thế chiến thứ II, khi Nhật Bản chiếm đóng Papua New Guinea, chính quyền cấm các hoạt động tôn giáo, đặc biết là Công giáo, đồng thời cổ vũ đa thê để chiếm lòng dân. Dù vậy, To Rot (1912-1945) vẫn âm thầm tổ chức cầu nguyện và bảo vệ các giá trị Kitô giáo. “Ngài bảo vệ tính bất khả phân ly của hôn nhân, chăm sóc dân chúng khi không có linh mục. Chúng ta có nhiều vị thánh tử đạo vì hôn nhân, như Gioan Tẩy Giả, nhưng To Rot là một giáo dân đương thời. Trong một thời đại mà người ta nói đến “tình yêu lỏng lẻo” và hôn nhân đang gặp khủng hoảng, tấm gương của ngài thật đáng suy gẫm”.

3. Chiêm niệm và bác ái nơi chân phước Poloni

Thành Verona nghèo khó của nửa đầu thế kỷ XIX là nơi chân phước Vincenza Maria Poloni (1802-1855) sinh sống và hoạt động. Chị là vị sáng lập Dòng Nữ tử Lòng Thương Xót, được Đức Bênêđictô XVI tuyên chân phước ngày 21 tháng Chín năm 2008 tại Verona.

“Đặc sủng của chị là sự kết hợp giữa lòng thương xót dành cho người nghèo và chiêm niệm trước Thánh Thể. Chị giúp đỡ tha nhân cách cụ thể, dành cả ngày bên cạnh người nghèo và bệnh nhân, nhưng đó không chỉ là lòng nhân đạo thuần túy - vì trong người nghèo, chị nhận ra chính Chúa Kitô.”

“Tính thời sự nơi gương sáng của chị chính là lời mời gọi trở về với thinh lặng và cầu nguyện sau khi dấn thân phục vụ bác ái.” Đặc sủng ấy vẫn tiếp tục được sống động nơi các Nữ tử Lòng Thương Xót, đang hiện diện tại Ý, Đức, châu Phi và Nam Mỹ.

4. Maria Carmen

Chân phước Maria del Monte Carmelo Rendiles Martínez (1903-1977) đã sáng lập Dòng Tôi tớ Chúa Giêsu, chuyên lo giáo dục, dạy giáo lý và phục vụ trong các giáo xứ, bệnh viện. Chị được Đức Giáo hoàng Phanxicô phong chân phước, ngày 16 tháng Sáu năm 2018. Chị là “một phụ nữ bình thường, như Đức Phanxicô nói về các nữ tu: sống đời tận hiến với sự đơn sơ nhưng sâu sắc, khiêm nhường và mẫu tử trong các tương quan.”

“Sự thánh thiện của chị là sự thánh thiện trong đời sống thường ngày - một mẫu gương dễ tiếp cận, có thể đề nghị cho mọi phụ nữ, không chỉ cho những người tận hiến”.

5. Chân phước Troncatti - Người mẹ và nhà truyền giáo thánh thiện

“Chân phước Maria Troncatti (1883-1969) là một vị thánh của sứ mạng truyền giáo, và thật ý nghĩa khi chị được tuyên thánh vào Ngày Thế giới Truyền giáo”.

Chị được Đức Bênêđictô XVI phong chân phước ngày 24 tháng Mười Một năm 2012 tại Macas, Ecuador. Chị là bác sĩ, y tá, giáo lý viên và mẹ thiêng liêng; người dân gọi chị là “người mẹ của mọi người”.

Sau Thế chiến thứ I, chị lên đường truyền giáo tại Ecuador, làm việc hơn 40 năm giữa người bản địa Shuar vùng Amazon. “Chị là người kiến tạo hòa bình và hòa giải giữa các dân bản địa và di dân da trắng, vốn quen với bạo lực và trả thù. Nếu còn sống hôm nay, chị xứng đáng nhận Giải Nobel Hòa bình... Sứ điệp của chị là hãy đầu tư vào thế hệ trẻ - trong mục vụ giới trẻ, trong việc huấn luyện các đôi bạn trẻ và gia đình trẻ”.

6. Bác sĩ, đức tin và lòng bác ái: chân phước Hernández Cisneros

Sự trung thành với Tin mừng trong đời sống thường nhật cùng lòng bác ái với người nghèo được thể hiện trọn vẹn nơi chân phước José Gregorio Hernández Cisneros (1864-1919), được phong tuyên chân phước ngày 30 tháng Tư năm 2021, tại Caracas theo sắc lệnh của Đức Thánh cha Phanxicô.

Ngài là “một bác sĩ có trình độ khoa học hàng đầu, giáo sư đại học, nhưng trong phòng khám riêng, ngài tiếp đón và chữa bệnh cho tất cả - bất kể họ có tiền hay không... “Ngài yêu cầu người giàu để lại một khoản bố thí cho bệnh nhân nghèo.”

Đức Giáo hoàng Phanxicô thường gọi ngài là “vị thánh ở nhà bên cạnh”, và vì lòng tận tâm với người nghèo, dân chúng tôn ngài là “bác sĩ của người nghèo”.

Ngài qua đời tại Caracas ngày 29 tháng Sáu năm 1919, vì bị tai nạn giao thông, khi đang mang thuốc đến cho một bệnh nhân. “Đức Thánh cha Phanxicô nhận ra rằng chân phước Gregorio có thể là điểm quy chiếu thiêng liêng cho lòng đạo đức bình dân của người Venezuela”.

7. Bartolo Longo - Dấn thân vì người nghèo với tràng Mân côi trên tay

Chân phước Bartolo Longo (1841-1926) đến Napoli để học luật và nhưng rồi sa vào những điều khác ngoài việc học hành, trong đó có cả các hội kín Satan.

Một ngày kia, một vị giáo sư nói với ông: “Con không phải là người như thế. Đây không phải là sự thật về con. Điều con tìm kiếm, nỗi dằn vặt trong lòng con, không thể tìm thấy trong lối sống hiện nay.” Sau khi hoán cải, Bartolo Longo nhận ra rằng “con đường tốt nhất để đến với Thiên Chúa là qua kinh Mân côi dâng Đức Mẹ.”

Việc ông là giáo dân chứ không phải linh mục giúp ông trở nên gần gũi hơn với các tín hữu. “Nhờ sự hiện diện của Đức Mẹ và lòng sùng kính kinh Mân côi, ông không chỉ xây dựng Đền thánh Pompei, nhưng còn dựng nên cả thành phố Pompei: để xây dựng nhà thờ, ông biến những người nông dân thành thợ xây, cung cấp chỗ ở cho họ. Từ đó nảy sinh bệnh viện, nhà thuốc, trường học. Ông chăm sóc con cái của tù nhân và trẻ bị bỏ rơi.” Đền thánh Pompei vì thế đã trở thành hạt giống cho nhiều công trình xã hội phục vụ người nghèo.

“Điều chúng ta học được nơi chân phước Bartolo là không thể có mối tương quan thật với Thiên Chúa nếu không sống hòa hợp với tha nhân.”

Nghi thức tôn phong

Sau phần tóm lược của Đức Hồng y Tổng trưởng Bộ Phong thánh, Đức Thánh cha mời gọi mọi người cầu xin sự chuyển cầu của các thánh qua kinh cầu, rồi ngài long trọng đọc công thức phong thánh: “Để tôn vinh Chúa Ba Ngôi và tôn dương đức tin Công giáo, để tăng cường đời sống Kitô, với quyền của Chúa Kitô và các Tông đồ Phêrô Phaolô và quyền của ngài, sau khi đã tham vấn nhiều anh em, ghi tên bảy vị chân phước vào sổ bộ các thánh và truyền tôn kính các vị trong toàn thể Giáo hội”.

Cộng đoàn đã hát Alleluia để bày tỏ vui mừng và chúc tụng Chúa, trước khi Đức Hồng y Tổng trưởng và các thỉnh nguyện viên ngỏ lời cám ơn Đức Thánh cha và xin ngài truyền thảo các Văn kiện Tòa Thánh về việc phong thánh này.

Bài giảng của Đức Thánh cha

Thánh lễ tiếp tục với phụng vụ Lời Chúa và Đức Thánh cha đã giảng sau bài Tin mừng theo thánh Luca, trong đó Chúa Giêsu thuật lại dụ ngôn người thẩm phán không muốn phân xử cho bà góa trong thành để dạy các môn đệ hãy luôn cầu nguyện.

Đức Thánh cha nói: Anh chị em thân mến,

Câu hỏi kết thúc đoạn Tin mừng vừa được công bố mở ra cho chúng ta một sự suy niệm: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy đức tin trên mặt đất chăng?” (Lc 18,8). Câu hỏi này cho chúng ta thấy điều quý giá nhất trong mắt Chúa: đó là đức tin, nghĩa là mối dây liên kết của tình yêu giữa Thiên Chúa và con người. Hôm nay, trước mặt chúng ta là bảy chứng nhân - những vị thánh mới, những người mà nhờ ơn Chúa đã giữ cho ngọn đèn đức tin luôn cháy sáng; hơn thế nữa, chính họ đã trở nên những ngọn đèn chiếu tỏa ánh sáng của Chúa Kitô.

So với những của cải vật chất hay những thành tựu văn hóa, khoa học và nghệ thuật vĩ đại, đức tin vượt trội hơn - không phải vì những điều kia đáng khinh chê, nhưng vì nếu thiếu đức tin, tất cả sẽ mất đi ý nghĩa. Mối tương quan với Thiên Chúa là điều quan trọng nhất, vì chính Ngài đã tạo dựng mọi sự từ hư vô vào lúc khởi đầu thời gian, và Ngài cũng cứu chuộc khỏi hư vô tất cả những gì bị hư mất trong thời gian. Một thế giới không có đức tin sẽ là một nơi đầy những người con sống mà không có Cha - nghĩa là những tạo vật không có ơn cứu độ.

Chính vì thế, Chúa Giêsu - Con Thiên Chúa làm người - đã đặt câu hỏi về đức tin: Nếu đức tin biến mất khỏi thế gian, điều gì sẽ xảy ra? Trời và đất vẫn còn đó như cũ, nhưng trong lòng con người sẽ không còn hy vọng; tự do của con người sẽ bị cái chết đánh bại; ước muốn sống của chúng ta sẽ rơi vào hư vô. Không có đức tin vào Thiên Chúa, chúng ta không thể hy vọng vào ơn cứu độ. Câu hỏi của Chúa Giêsu khiến chúng ta băn khoăn - nhưng chỉ khi chúng ta quên rằng chính Chúa Giêsu là Đấng đặt câu hỏi đó. Quả thật, lời của Chúa luôn là Tin mừng, nghĩa là tin vui về ơn cứu độ. Ơn cứu độ ấy là món quà sự sống đời đời mà chúng ta lãnh nhận từ Chúa Cha, nhờ Chúa Con, trong quyền năng Chúa Thánh Thần.

Đức Thánh cha nói tiếp: Anh chị em rất thân mến,

Chính vì thế Chúa Kitô nói với các môn đệ về “sự cần thiết phải cầu nguyện luôn, không được nản chí” (Lc 18,1): cũng như chúng ta không bao giờ ngừng thở, thì cũng đừng bao giờ ngừng cầu nguyện! Như hơi thở duy trì sự sống thể xác, thì lời cầu nguyện nuôi dưỡng sự sống của linh hồn: bởi vì đức tin được thể hiện trong cầu nguyện, và lời cầu nguyện chân thật được sống bằng đức tin.

Chúa Giêsu diễn tả mối liên kết ấy qua một dụ ngôn: một vị thẩm phán dửng dưng trước những lời kêu xin khẩn thiết của một bà góa; nhưng chính sự kiên trì của bà đã khiến ông phải hành động. Thoạt nhìn, lòng kiên trì ấy là một tấm gương đẹp về niềm hy vọng, nhất là trong lúc thử thách và gian truân. Tuy nhiên, sự bền chí của người phụ nữ và thái độ miễn cưỡng của vị thẩm phán lại dẫn đến một câu hỏi thách thức của Chúa Giêsu: “Chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, là những kẻ ngày đêm kêu cứu với Người sao?” (Lc 18,7).

Từ đây, Đức Thánh cha nhấn mạnh: Hãy để những lời này vang lên trong lương tâm chúng ta: Chúa đang hỏi chúng ta có tin rằng Thiên Chúa là Đấng xét xử công minh cho mọi người hay không. Con của Ngài hỏi chúng ta có tin rằng Chúa Cha luôn muốn điều thiện hảo và ơn cứu độ cho mọi người hay không. Hai cơn cám dỗ thường thử thách đức tin chúng ta:

- Cơn cám dỗ thứ nhất bắt nguồn từ gương mù của sự dữ, khiến ta nghĩ rằng Thiên Chúa không lắng nghe tiếng kêu của người bị áp bức, không cảm thương nỗi đau của người vô tội.

- Cơn cám dỗ thứ hai là muốn Thiên Chúa hành động theo ý chúng ta, khiến lời cầu nguyện trở thành mệnh lệnh cho Thiên Chúa, dạy Ngài phải làm sao để “công bằng và hiệu quả”.

Chính Chúa Giêsu giải thoát chúng ta khỏi cả hai cám dỗ đó, vì Ngài là chứng nhân hoàn hảo của niềm tín thác con thảo. Ngài là Đấng vô tội, và đặc biệt trong cuộc khổ nạn, Ngài đã cầu nguyện: “Lạy Cha, xin đừng theo ý con, một theo ý Cha” (x. Lc 22,42). Đó cũng chính là những lời mà Thầy dạy chúng ta trong Kinh Lạy Cha. Dù có chuyện gì xảy ra, Chúa Giêsu luôn phó thác mình như người con vào tay Chúa Cha; vì thế, chúng ta - là anh chị em trong danh Ngài - cùng tuyên xưng: “Thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con, mọi nơi mọi lúc tạ ơn Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, nhờ Chúa Kitô, Chúa chúng con.” (Sách Lễ Rôma, Kinh Tiền Tụng II, Kinh Tạ Ơn)

Lời cầu nguyện của Hội thánh nhắc chúng ta rằng Thiên Chúa thực thi công lý bằng cách ban chính sự sống của Ngài cho mọi người. Vì thế, khi chúng ta kêu lên: “Lạy Chúa, Ngài ở đâu?”, nếu biến tiếng kêu đó thành lời cầu nguyện, chúng ta sẽ nhận ra Thiên Chúa đang ở đó - nơi người vô tội đang chịu đau khổ. Thánh giá của Chúa Kitô bày tỏ sự công chính của Thiên Chúa. Và sự công chính của Thiên Chúa chính là lòng thương xót: Ngài nhìn thấy sự dữ và cứu chuộc nó bằng cách mang lấy nó trên mình. Khi chúng ta bị đóng đinh bởi đau khổ, bạo lực, hận thù hay chiến tranh, Chúa Kitô đã ở đó, chịu đóng đinh vì chúng ta và cùng với chúng ta. Không có tiếng khóc nào mà Thiên Chúa không lắng nghe; không có giọt lệ nào xa khỏi trái tim Ngài. Chúa đón nhận chúng ta như chúng ta là, để biến đổi ta nên giống như Ngài. Ai khước từ lòng thương xót của Thiên Chúa thì không thể có lòng thương xót với tha nhân; ai không đón nhận bình an như một ân huệ thì sẽ không biết trao ban bình an.

Xét mình

Và Đức Thánh cha nhắn nhủ rằng: Anh chị em thân mến, giờ đây chúng ta hiểu những câu hỏi của Chúa Giêsu là một lời mời gọi mạnh mẽ hướng đến niềm hy vọng và hành động: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy đức tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa chăng?” Chính đức tin ấy nâng đỡ nỗ lực của chúng ta cho công lý, bởi vì chúng ta tin rằng Thiên Chúa cứu độ thế gian bằng tình yêu, giải thoát chúng ta khỏi định mệnh mù quáng.

Vậy chúng ta hãy tự hỏi: Khi nghe tiếng kêu của những người gặp khó khăn, liệu chúng ta có là chứng nhân của tình yêu Chúa Cha, như Chúa Kitô đã là chứng nhân cho mọi người không? Ngài là Đấng khiêm nhường kêu gọi kẻ kiêu căng hoán cải, là Đấng công chính làm cho chúng ta nên công chính - như chính các vị thánh mới hôm nay đã làm chứng: không phải là những anh hùng hay chiến sĩ của một lý tưởng nào, mà là những con người chân thật.

Bảy người bạn của Chúa

Và Đức Thánh cha kết luận rằng: “Những người bạn trung tín của Chúa Kitô này là các vị tử đạo vì đức tin, như Đức giám mục Ignazio Choukrallah Maloyan và giáo lý viên Phêrô To Rot; họ là những nhà truyền giáo và loan báo Tin mừng, như nữ tu Maria Troncatti; là những vị sáng lập dòng đầy ơn sủng, như nữ tu Vincenza Maria Poloni và nữ tu Carmen Rendiles Martínez; với con tim bừng cháy lòng sùng kính, họ là những ân nhân của nhân loại, như Bartolo Longo và José Gregorio Hernández Cisneros.

Xin lời chuyển cầu của các thánh mới nâng đỡ chúng ta trong thử thách, và xin gương sống của các ngài truyền cảm hứng cho chúng ta trong ơn gọi chung nên thánh. Khi chúng ta còn đang lữ hành tiến về cùng đích ấy, hãy cầu nguyện không ngừng, vững vàng trong điều chúng ta đã học và tin tưởng vững chắc (x. 2Tm 3,14). Đức tin trên mặt đất sẽ nâng đỡ niềm hy vọng trên trời.

Kinh Truyền tin

Cuối thánh lễ, lúc gần 12 giờ 30, Đức Thánh cha đã chủ sự kinh Truyền tin. Trong huấn dụ ngắn, Đức Thánh cha nói:

Anh chị em thân mến, tôi chân thành gửi lời chào đến tất cả anh chị em đã tham dự buổi cử hành này - một đại lễ của sự thánh thiện!

Tôi xin cảm ơn các Hồng y, các Thượng phụ và các Giám mục hiện diện; đồng thời tôi cũng trân trọng gửi lời chào tới Tổng thống Cộng hòa Ý và Tổng thống Liban, cùng các phái đoàn chính thức đáng kính, đặc biệt là của Armenia và Venezuela.

Tôi vui mừng đón tiếp các nữ tu - những người con thiêng liêng của các Đấng Sáng lập vừa được phong thánh hôm nay - cùng các cộng đoàn và hiệp hội khác được linh hứng bởi đoàn sủng của các thánh mới. Xin cảm ơn tất cả anh chị em vì sự tham dự sốt sắng của mình!

Tôi cũng gửi lời chào đến các tín hành hương khác đang có mặt tại đây, đặc biệt là Huynh đoàn Chúa các Phép Lạ (Hermandad del Senor de los Milagros), những người đã cử hành cuộc rước truyền thống.

Hôm nay là Ngày Thế giới Truyền giáo. Hội thánh là truyền giáo trong toàn thể bản chất của mình, nhưng hôm nay chúng ta đặc biệt cầu nguyện cho những người nam và nữ đã từ bỏ mọi sự để mang Tin mừng đến với những ai chưa biết đến Chúa. Họ là những nhà truyền giáo của niềm hy vọng giữa muôn dân. Xin Chúa chúc lành cho họ!

Những tin tức đến từ Myanmar thật đáng buồn: vẫn tiếp diễn các cuộc đụng độ vũ trang và oanh kích trên không, kể cả nhằm vào dân thường và cơ sở hạ tầng dân sự. Tôi gần gũi với tất cả những ai đang chịu đau khổ vì bạo lực, bất an và muôn vàn khốn khó. Tôi tha thiết kêu gọi chấm dứt ngay lập tức và hiệu quả các cuộc giao tranh. Xin cho khí cụ của chiến tranh nhường chỗ cho khí cụ của hòa bình, nhờ một cuộc đối thoại bao dung và xây dựng!

Chúng ta phó thác cho lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria và các thánh mới lời cầu nguyện liên lỉ cho hòa bình - tại Đất Thánh, Ucraina và những nơi khác còn chiến tranh. Xin Thiên Chúa ban cho tất cả những người có trách nhiệm sự khôn ngoan và lòng kiên trì, để họ có thể tiến bước trên con đường tìm kiếm một nền hòa bình công bằng và bền vững.

Kế đó, Đức Thánh cha xướng kinh Truyền tin và ban phép lành cuối lễ.

Trực tiếp

Livesteam thumbnail