Tước hiệu Tiến sĩ Hội thánh: Ý nghĩa, lịch sử và thủ tục
Đại lễ Các Thánh, ngày 01 tháng Mười Một tới đây, trong thánh lễ cử hành cho giới Giáo dục, về Roma hành hương Năm Thánh, Đức Thánh cha Lêô XIV sẽ chủ sự nghi thức tôn phong thánh John Henry Newman làm Tiến sĩ của Hội thánh Công giáo.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Thánh John Henry Newman sinh năm 1801 tại Anh quốc, nguyên là một linh mục thần học gia lỗi lạc của Anh giáo và trở lại Công giáo năm 1845, khi được 44 tuổi, sau đó gia nhập Dòng giảng thuyết Thánh Philipphê Neri. Năm 1879, cha được Đức Giáo hoàng Lêô XIII bổ nhiệm làm Hồng y và tiếp tục hoạt động tông đồ cho đến khi qua đời, năm 1890 hưởng thọ 89 tuổi.
Năm 2010, Đức Hồng y Newman đã được Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI tôn phong chân phước, trong cuộc viếng thăm tại Anh quốc. Chín năm sau, 2019, ngài được Đức Giáo hoàng Phanxicô tôn phong hiển thánh.
Một vấn nạn thường được nêu lên: Đức Hồng y John Henry Newman đã là hiển thánh của Giáo hội và được tôn kính trong phụng vụ, đang được hạnh phúc vĩnh cửu bên Chúa thì cần gì tước hiệu “Tiến sĩ Hội thánh” như thế?
Ý nghĩa
Quả thực, việc tôn phong tước hiệu Tiến sĩ Hội thánh chẳng thêm gì cho hạnh phúc của thánh nhân, nhưng việc làm của Đức Thánh cha có ảnh hưởng đến các tín hữu còn tại thế này và cho toàn Giáo hội.
Theo định nghĩa, Tiến sĩ Hội thánh là những bậc thầy đức tin nổi bật, có cuộc sống thánh thiện và đạo lý thần học sâu xa, được chứng tỏ qua các tác phẩm của các vị, được Giáo hội tôn kính với tước hiệu đó. Định nghĩa này nói lên ba điều kiện để được gọi là Tiến sĩ Hội thánh: thứ nhất là phải có đời sống thánh thiện nổi bật; thứ hai là có đạo lý sâu xa, và thứ ba là được thẩm quyền Giáo hội tôn phong hay xác nhận như vậy.
Thứ nhất là phải có đời sống thánh thiện nổi bật. Có những nhà thần học uyên bác, trổi vượt và có ảnh hưởng lớn trong Giáo hội, nhưng không được phong thánh, nên không được tôn kính như Tiến sĩ Hội thánh. Ví dụ như ông Origène (185-253), hoặc Tertulliano (155-222). Sở dĩ vị Tiến sĩ Hội thánh phải là một vị thánh được Giáo hội tôn phong, là vì Giáo hội muốn khẳng định rằng tước hiệu Tiến sĩ Hội thánh không phải chỉ liên hệ tới tài năng bản thân khéo léo của vị đó trong việc trình bày đức tin, nhưng trước hết đó là ơn của Chúa Thánh Linh làm cho vị đó có thể cảm nghiệm được và giúp người khác cảm nghiệm được những gì thuộc về Thiên Chúa.
Điều kiện thứ hai là phải có đạo lý trổi vượt, được chứng tỏ qua các tác phẩm. Điều kiện này cho thấy Giáo hội đề cao tầm quan trọng của những kiến thức về Thiên Chúa và những gì thuộc về Chúa. Trong lịch sử, Giáo hội đã từng lên án những lý thuyết cho rằng tri thức là con đường duy nhất để đạt tới ơn cứu độ, nhưng tri thức về Thiên Chúa và về Ngôi Lời của Thiên Chúa được Giáo hội thông truyền là điều giữ một vai trò quan trọng trong chương trình cứu độ, như Chúa Giêsu đã nói trong Tin mừng thánh Gioan (17,3): “Sự sống đời đời là họ được biết Cha là Thiên Chúa chân thật và Đấng Cha sai đến là Giêsu Kitô”. Chính vì thế, Giáo hội có lòng tôn kính đặc biệt đối với các thầy dạy đức tin nổi bật.
Điều kiện thứ ba là được Đức Giáo hoàng hoặc một Công đồng chung tôn phong là Tiến sĩ Hội thánh. Đức Giáo hoàng Bênêđictô XIV đã nói rằng một công đồng chung có thể tuyên bố một vị là Tiến sĩ Hội thánh, nhưng trong thực tế, phần lớn những điều mà một Công đồng chung làm là ca ngợi tác phẩm và ảnh hưởng của các vị Tiến sĩ khác nhau.
Giáo hội có bao nhiêu thánh Tiến sĩ?
Thánh John Henry Newman sẽ là vị Tiến sĩ Hội thánh thứ 38, trong số này có 8 vị đại Tiến sĩ thuộc sáu thế kỷ đầu tiên của Hội thánh: 4 vị thuộc Giáo hội Tây phương, là Ambrosio, Giám mục thành Milano; thánh Giêrônimô, qua đời thế kỷ thứ V; Thánh Augustinô, Giám mục thành Hippone, Bắc Phi, hồi thế kỷ thứ V; thánh Gregorio Cả, Giáo hoàng, qua đời năm 604.
Bốn vị đại Tiến sĩ thuộc Giáo hội Đông phương, là thánh Basilio Cả, thế kỷ thứ IV; thánh Gregorio Nazianzeno, qua đời năm 390; thánh Gioan Kim Khẩu, qua đời năm 407; và thánh Atanasio qua đời năm 373 và được thánh Piô V Giáo hoàng tôn phong là Tiến sĩ Hội thánh năm 1568.
Tất cả các vị còn lại được tôn phong sau thời cải cách của Tin lành. Gần đây hơn: hồi tháng Chín và tháng Mười năm 1970, Đức Phaolô VI đã lần lượt tôn phong hai nữ Tiến sĩ Hội thánh đầu tiên, là thánh Têrêsa Avila, Dòng kín Cát Minh và thánh Catarina Siena, Dòng Đa Minh.
Cũng nên ghi nhận rằng thánh Catarina Siena, sống vào thế kỷ XIV, là người không biết chữ, nhưng đã được những thị kiến và học hỏi những đạo lý uyên thâm nơi chính Chúa. Thánh nữ đọc cho thư ký viết những điều đã học được như thế, viết nhiều thư từ cho các vị hồng y, giám mục, cũng như cho giáo dân, và làm cố vấn cho Đức Giáo hoàng. Điều này càng chứng tỏ Giáo hội đặt nặng chiều kích siêu nhiên của đức tin và đạo lý, hơn là khả năng trình bày khéo léo của con người.
Khác biệt giữa Tiến sĩ Hội thánh và thánh Giáo phụ
Tất cả các thánh Giáo phụ đều là Tiến sĩ Hội thánh, nhưng không phải vị Tiến sĩ Hội thánh nào cũng là Giáo phụ. Nói khác đi, các Giáo phụ cũng là những bậc thầy nổi bật của đức tin, có đời sống thánh thiện, nhưng tước hiệu này, theo truyền thống, chỉ được dành cho những tác giả thời cổ, có đời sống thánh thiện và đạo lý trổi vượt, đã góp phần lớn lao vào việc hình thành đạo lý của Giáo hội trong những thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo.
Ngoài tám vị Đại Tiến sĩ của hai Giáo hội Tây và Đông phương, như đã nói trên đây, còn có một số vị Tiến sĩ Hội thánh sống vào thời cổ, như thánh Hilario, thánh Ephrem, thánh Beda, cũng được gọi là các Giáo phụ.
Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu (1873-1897)
Thánh nữ được thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II tôn làm Tiến sĩ Hội thánh, trong thánh lễ Chúa nhật ngày 19 tháng Mười năm 1997, tại Quảng trường Thánh Phêrô. Lý do?
Trước đó, trong bài huấn dụ trước khi đọc kinh Truyền tin cuối thánh lễ tại trường đua Longchamp, Paris, Chúa nhật ngày 24 tháng Tám năm 1997, trước một triệu tín hữu, Đức Thánh cha Gioan Phaolô II đã giải thích thắc mắc này. Ngài gợi lại những nét nổi bật trong cuộc đời của thánh nữ và nói rằng:
“Nữ đan sĩ Dòng Cát Minh này đã hoàn toàn bị tình yêu Chúa chiếm đoạt. Têrêsa sống một cách quyết liệt sự hiến thân để đáp lại tình yêu Thiên Chúa. Trong sự đơn sơ của đời sống thường nhật, Têrêsa cũng biết thực hành tình yêu thương huynh đệ... Têrêsa đã chịu đau khổ trong thân xác, và thử thách trong đức tin, nhưng Têrêsa vẫn trung thành vì biết rằng Thiên Chúa là Đấng Công chính và Từ bi; thánh nữ hiểu rằng tình yêu Chúa ban thì bao la hơn tình yêu của con người. Dù trong đêm đen cùng cực, Têrêsa vẫn đặt trọn niềm hy vọng nơi Chúa Giêsu, Người Đầy tớ đau khổ đã hiến mạng sống để cứu thoát nhiều người (Is 53,12).
Giáo huấn của thánh Têrêsa, là một khoa học đích thực về tình yêu, và biểu lộ sự hiểu biết của thánh nữ về mầu nhiệm Chúa Kitô và kinh nghiệm bản thân về ơn thánh. Thánh nữ đang giúp con người ngày nay, và những người ngày mai, ý thức rõ hơn về các hồng ân của Chúa và rao truyền Tin mừng Tình thương vô biên của Chúa.
Là nữ đan sĩ Cát Minh và là tông đồ, là thầy dạy sự khôn ngoan tinh thần của nhiều tu sĩ và giáo dân, là bổn mạng các xứ truyền giáo, thánh nữ Têrêsa chiếm một chỗ quan trọng trong Giáo hội. Giáo huấn trổi vượt của thánh nữ đáng được nhìn nhận trong số những đạo lý phong phú nhất. Và Đức Thánh cha loan báo rằng:
“Đáp lại nhiều đơn thỉnh cầu, sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng, tôi vui mừng loan báo rằng ngày Chúa nhật truyền giáo, 19 tháng Mười năm nay, 1997, tại Đền thờ Thánh Phêrô ở Roma, tôi sẽ tôn phong thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu và Nhan Thánh là Tiến sĩ Hội thánh.”
Trong lời tuyên bố của Đức Thánh cha, ngài có nhắc đến các đơn thỉnh cầu. Thật vậy, đơn xin Tòa Thánh phong thánh nữ Têrêsa Hài Đồng làm Tiến sĩ Hội thánh đã có từ 65 năm trước đó, tức là năm 1932. Hồ sơ và đơn xin được 600 giám mục ủng hộ, nhưng khi gửi tới Đức Giáo hoàng Piô XI, ngài từ chối và để cho các vị Giáo hoàng kế vị ngài quyết định, bởi lẽ trong lịch sử Giáo hội chưa hề có phụ nữ nào được tôn phong như vậy. Sự kiện Đức Phaolô VI vào năm 1970 tôn phong hai nữ Tiến sĩ Hội thánh đầu tiên, là thánh nữ Catarina (1347-1380) và thánh nữ Têrêsa Avila (1515-1582) gây hy vọng không ít cho những người mong muốn vinh dự này cũng được dành cho thánh nữ Têrêsa Hài Đồng.
Vì thế, hồi tháng Hai năm 1989, Đức cha Pierre Pican, Giám mục Giáo phận Bayeux và Lisieux, yêu cầu vị giám mục phụ tá của ngài là Đức cha Guy Gaucher, Dòng Camêlô, và cũng là chuyên viên về thánh nữ Têrêsa Hài Đồng, xúc tiến việc thiết lập hồ sơ và tái xin Tòa Thánh tôn phong Tiến sĩ Hội thánh.
Đơn thỉnh nguyện này được Hội đồng Giám mục Pháp ủng hộ trong khóa họp hồi tháng Mười Một năm 1991, tại Lộ Đức. Và trong thời gian sau đó đã có 50 Hội đồng Giám mục trên thế giới, với tổng cộng hơn một ngàn giám mục, cùng với hai trăm ngàn chữ ký của các tín hữu tại 107 quốc gia, xin Đức Thánh cha tôn phong thánh nữ Têrêsa Hài Đồng làm Tiến sĩ Hội thánh. Rất nhiều lý lẽ cũng được các nhà thần học đề ra để ủng hộ lời thỉnh cầu này, trong đó có các vị Hồng y thần học gia nổi danh, như Yves Congar, O.P., người Pháp, Journet và Von Balthasar người Thụy Sĩ, Đức Hồng y Moreira Neves, O.P., Chủ tịch Hội đồng Giám mục Brazil, Đức Hồng y Paul Poupard người Pháp, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về Văn hóa, v.v…
Trong những tháng đầu năm 1997, một tập hồ sơ đầy 950 trang về vấn đề này đã được hoàn thành và giao cho chín chuyên viên thần học nghiên cứu và cho ý kiến. Hồ sơ cũng trình bày ảnh hưởng lớn lao của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng trong linh đạo Công giáo suốt 100 năm qua, từ sau khi thánh nữ qua đời. Hồ sơ nhấn mạnh tầm quan trọng của thánh nữ, đặc sủng “tiến sĩ, bậc thầy về đời sống tu đức” mà thánh nữ chu toàn trong Giáo hội. Đức Thánh cha Gioan Phaolô II đã phê chuẩn sau khi có ý kiến thuận của Bộ Phong thánh.
Tóm lại, việc Đức Thánh cha Lêô XIV sắp tôn phong thánh John Henry Newman làm “Tiến sĩ Hội thánh” không phải là một sự nhìn nhận học vị khoa bảng, nhưng là một sự tuyên xưng của Giáo hội về linh đạo và đạo lý của thánh nhân, vốn là một nhà tư tưởng, nhưng cũng là con người cầu nguyện, một mục tử của các linh hồn, nhưng cũng là người thao thức tìm kiếm chân lý. Nay thánh nhân được tôn làm người hướng dẫn dân Chúa trong thời đại chúng ta. Trong một thời đại có nhiều lập trường cực đoan, linh đạo mong manh và tư tưởng nhiều khi hời hợt, thánh Newman chứng tỏ rằng ta có thể tư duy nghiêm túc và tin tưởng với lòng khiêm tốn.
Một trong những tác phẩm nổi tiếng của thánh nhân là cuốn “Bài giảng về sự phù hợp của Tin mừng cho mọi thời đại” (Sermon on the Fitness of the Gospel to All Times), thánh Newman khẳng định rằng “một đức tin không suy nghĩ thì sẽ sớm chấm dứt tin tưởng”. Có lẽ đây chính là nòng cốt bài học của ngài cho Giáo hội: Một sự hiểu biết về đức tin không bao giờ từ bỏ con tim, và một con tim không sợ lý trí.
Vị Tiến sĩ Hội thánh gần đây nhất
Cách đây hơn ba năm, ngày 21 tháng Giêng năm 2022, Đức Thánh cha Phanxicô đã thêm một vị Tiến sĩ mới của Hội thánh, đó là thánh Irénée thành Lyon. Ngài đã ký và công bố sắc lệnh tôn phong thánh Irénée, Giám mục thành Lyon, bên Pháp là “Tiến sĩ Hiệp nhất của Hội thánh” (Doctor unitatis). Ngài là vị tiến sĩ thứ 37 của Giáo hội Công giáo.
Sắc lệnh viết: “Thánh Irénée thành Lyon, đến từ Đông Phương, đã thi hành sứ vụ Giám mục tại Tây phương: Ngài là một cây cầu thiêng liêng và thần học giữa các tín hữu Kitô Đông và Tây Phương. Tên của ngài, Irénée, biểu lộ niềm an bình đến từ Chúa và hòa giải, tái hội nhập trong sự hiệp nhất. Vì những lý do đó, sau khi có ý kiến của Bộ Phong thánh, với quyền Tông đồ của tôi, tôi tuyên bố ngài là Tiến sĩ Hội thánh, với tước hiệu “Tiến sĩ Hiệp nhất”.
Ước gì đạo lý của vị Tôn sư cao cả này có thể ngày càng khích lệ hành trình của tất cả các môn đệ của Chúa tiến về sự hiệp thông trọn vẹn.
Vatican ngày 21 tháng Giêng năm 2022, ký tên: Phanxicô.