Đức Thánh cha sẽ tôn phong bảy chân phước lên bậc hiển thánh

Una Messa in Piazza San Pietro | Vatican News
Hôm 29 tháng Chín vừa qua, Ban Nghi lễ phụng vụ của Tòa Thánh thông báo lúc 10 giờ 30, sáng Chúa nhật ngày 19 tháng Mười tới đây, Ngày Thế giới Truyền giáo, Đức Thánh cha Lêô XIV sẽ chủ sự thánh lễ tại Quảng trường Thánh Phêrô để tôn phong bảy chân phước lên bậc hiển thánh: bao gồm một giám mục và giáo dân tử đạo, ba nữ tu và ba giáo dân hiển tu.

G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA

Đứng đầu danh sách là Đức cha Ignazio Chouktrallah Maloyan, Tổng giám mục Giáo phận Martin, thuộc Giáo hội Công giáo Armeni, sinh ngày 15 tháng Tư năm 1869, tại Martin bên Thổ Nhĩ Kỳ, và qua đời ngày 11 tháng Sáu năm 1915 tại Kara-Keupru, trong cuộc diệt chủng của Thổ Nhĩ Kỳ chống người Armeni.

Tiếp đến là chân phước Peter To Rot, giáo lý viên can trường người Papua New Guinea, đã được Đức Thánh cha Gioan Phaolô II tôn phong chân phước, ngày 17 tháng Giêng năm 1995, trong thánh lễ trọng thể tại thủ đô Port Moresby.

Ông sinh năm 1912. Trong thời quân Nhật chiếm Papua New Guinea, các thừa sai bị họ quản thúc. Ông Peter can đảm đứng ra lãnh nhận trách nhiệm hướng dẫn cộng đoàn thay cho vị thừa sai bị quản thúc. Ông tổ chức và hướng dẫn các buổi cầu nguyện chung, cẩn giữ và trao ban Mình Thánh Chúa, chăm sóc và cứu giúp người nghèo quanh vùng, mặc dù hoạt động mục vụ này gây ác cảm đối với quân Nhật.

Tháng Ba năm sau, 1944, quân cảnh Nhật hạ lệnh bắt giam tất cả những ai sống đạo. Trong tư cách là một tín hữu nhiệt thành và là người hướng đạo cho cả cộng đoàn tại Rakudai, ông Peter To Rot không thể tuân theo các chỉ thị độc đoán của giới thống trị. Ông bị bắt và cầm tù, rồi sau đó bị một bác sĩ quân y người Nhật chích thuốc độc sát hại.

Vị thứ ba là nữ tu Vincenza Maria Poloni, sinh năm 1802 tại Verona, Bắc Ý và đã sáng lập Dòng Tiểu Muội Chúa nhân lành năm 1848, dưới sự nâng đỡ tinh thần của cha linh hướng chân phước Carlo Steeb, sau khi vượt qua bao nhiêu chướng ngại và khó khăn ban đầu.

Công việc phục vụ khiêm hạ của dòng mới ngày càng thu hút sự chú ý của giới chức đạo đời, khiến các chị được mời đi làm việc nhiều nơi, cùng lúc với con số các thiếu nữ xin gia nhập dòng cũng gia tăng. Các cộng đoàn liên tiếp theo nhau mọc lên tại Padova và các vùng phụ cận Verona. Nữ tu bề trên liên lỷ hoạt động mặc dù sức khỏe ngày càng yếu đi, cho đến lúc chị khám phá ra bệnh ung thư ngực. Cuộc giải phẫu bắt bỏ bướu ung thư không đem lại kết quả mong muốn. Bệnh tình của chị trầm trọng hơn cho đến ngày 11 tháng Mười Một năm 1855, chị qua đời lúc mới 53 tuổi.

Vị thứ tư sẽ được tôn phong là chân phước nữ tu Maria Núi Cát Minh, tục danh là Carmen Elena Rendíles Martínez, sáng lập Dòng các Nữ tỳ Chúa Giêsu, sinh năm 1903 tại Caracas, thủ đô Venezuela, và qua đời tại đó năm 1977, thọ 74 tuổi.

Chị bị khuyết tật bẩm sinh, không có cánh tay trái và phải mang cánh tay giả suốt đời. Tuy vậy, chị vẫn học hành, làm việc và sau đó đã thi hành nhiều công tác trong Giáo hội. Chị nổi bật về lòng đạo đức và năm 24 tuổi, chị gia nhập Dòng Nữ Tỳ Chúa Giêsu Thánh Thể từ Pháp. Sau khi thụ huấn tại Toulouse, miền nam Pháp, chị trở về nước là làm bề trên tất cả các nhà của dòng tại Venezuela. Dòng phát triển mạnh.

Trong khi đó, dòng tại Pháp dần dần bị tục hóa, các nữ tu bỏ áo dòng, và sự khác biệt ngày càng lớn với các nữ tu tại Venezuela. Chị Carmel xin phép Tòa Thánh và ngày 25 tháng Ba năm 1966 chị thành lập dòng mới với tên là Dòng Nữ Tỳ Chúa Giêsu. Chị qua đời vì kiệt sức, năm 1977.

Vị thứ năm là nữ tu Maria Troncatti, người Ý, thuộc Dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ và là thừa sai tại Ecuador. Chị sinh năm 1883 tại tỉnh Brescia, bắc Ý, gia nhập và khấn dòng lần đầu vào năm 1908, khi được 25 tuổi. Trong Thế chiến thứ nhất, chị phục vụ như một y tá của Hội Chữ Thập Đỏ tại Varazze. Một biến cố đã in dấu sâu đậm trong đời chị: sau khi sống sót trong một trận lũ lụt thảm khốc, chị đã hứa với Đức Mẹ rằng nếu được cứu, chị sẽ lên đường đi truyền giáo. Lời hứa ấy đã thành hiện thực: năm 1922 chị Troncatti đặt chân đến Ecuador.

Trong 44 năm, chị sống giữa người Shuar tại Macas, Méndez, Sucúa và Sevilla Don Bosco. Ngoài việc loan báo Lời Chúa, chị còn là y tá, phẫu thuật viên, chỉnh hình, nha sĩ và dược sĩ cho họ. Đặc biệt, chị chú trọng đến việc thăng tiến phụ nữ Shuar, khuyến khích sự hình thành những gia đình Kitô mới dựa trên sự tự do chọn lựa, chứ không còn là những hôn nhân sắp đặt.

Chị bị tử nạn máy bay, ngày 25 tháng Tám năm 1969 khi chiếc máy bay chở chị đến thủ đô Quito đã rơi ngay sau khi cất cánh. Lúc đó chị 61 tuổi.

Vị chân phước thứ sáu sắp được phong hiển thánh là Gregorio Hernández, người Venezuela, sinh năm 1864, có bằng bác sĩ tại thủ đô Caracas và du học thêm tại Paris, Berlin, Madrid và New York, làm giáo sư đại học. Ông hành nghề như một sứ vụ, tận tụy săn sóc những người túng thiếu nhất, dùng tiền lương để mua thuốc men cho họ. Ông gia nhập Dòng Ba Phan Sinh tại thế. Trong thời dịch Tây Ban Nha, ông săn sóc các bệnh nhân. Ngày 29 tháng Sáu năm 1919, trên đường đi đến một nhà thuốc tây ở thủ đô Caracas để mua thuốc cho một nữ bệnh nhân già, ông bị tai nạn giao thông, và từ trần ít lâu sau khi được chở tới nhà thương cấp cứu, miệng còn kêu cầu Đức Mẹ. Lúc đó ông mới được 45 tuổi.

Vị chân phước thứ bảy là Bartolo Longo người Ý sinh năm 1841. Bartolo học luật tại Napoli và sống xa lìa đức tin, thực hành các buổi cầu cơ và lên đồng. Nhưng rồi sau đó đã tìm lại được đức tin nhờ sự giúp đỡ của một số linh mục.

Bartolo Longo cảm thấy ước muốn thăng tiến các công tác bác ái và trở thành người quản trị tài sản của nữ bá tước Marianna Farnararo, một góa phụ với năm người con nhỏ. Bartolo làm việc để những người nghèo sống trên lãnh thổ của nữ bá tước ở Valle di Pompei có đời sống xứng đáng hơn. Năm 1875, ông mang đến Pompeii một ảnh Đức Mẹ và năm sau đó bắt đầu xây một đền thánh kính dâng Đức Mẹ Mân côi, ngày 07 tháng Năm năm 1891. Bartolo Longo kết hôn với bà bá tước và cùng hiến dâng tài sản của Đền thánh cho Đức Giáo hoàng Lêô XIII, và ngài để lại cho ông bà quản trị tài sản đó. Thế là đối với Longo, bắt đầu một đời sống mới hoàn toàn dành cho việc sùng kính Đức Mẹ, viết và phổ biến các sách, các tạp chí về Đức Mẹ. Ông qua đời năm 1926 và được Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II tôn phong chân phước năm 1980.

(Rei 30-4-2021; Tổng hợp 30-9-2025)