Tiếp kiến chung của Đức Thánh cha: Lòng sám hối chân thành có thể mở cánh cửa của hoán cải và niềm vui

Lúc quá 9 giờ 30, sáng thứ Tư, ngày 13 tháng Tám vừa qua, Đức Thánh cha Lêô XIV đã tiếp kiến chung hàng chục ngàn tín hữu hành hương năm châu, trong đó cũng có một phái đoàn từ Việt Nam.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Vì thời tiết quá nóng, nên buổi tiếp kiến diễn ra tại hai nơi: trước tiên, lúc 10 giờ, tại Đại thính đường Phaolô VI, nội thành Vatican, trước sự hiện diện của hơn sáu ngàn người, trong đó có khoảng mười hồng y và giám mục, đặc biệt là hơn năm mươi đôi tân hôn.
Như thường lệ, buổi tiếp kiến được mở đầu với phần công bố Lời Chúa, qua một đoạn Tin mừng theo thánh Marco (14,17-21), được các độc viên xướng lên bằng nhiều thứ tiếng, thuật lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và các môn đệ trong bữa tiệc ly, đặc biệt là Chúa báo cho biết cuộc khổ nạn Người sắp phải chịu.
Trong phần giáo lý tiếp đó, Đức Thánh cha tiếp tục loạt bài Giáo lý Năm Thánh về “Chúa Giêsu Kitô niềm hy vọng của chúng ta”. Nay bước sang Chương III về sự phục sinh của Chúa Giêsu. Bài hôm nay là bài thứ hai có đề tài là: “Sự phản bội. “Có phải con không?” (Mc 14,19).
Mở đầu bài huấn dụ, Đức Thánh cha nói: “Anh chị em thân mến,
Tiếp tục hành trình của chúng ta nơi trường của Tin mừng, theo bước Chúa Giêsu trong những ngày cuối đời của Ngài, hôm nay, chúng ta dừng lại nơi một khung cảnh thân mật, bi thảm, nhưng cũng rất thực: đó là lúc trong bữa tiệc vượt qua, Chúa Giêsu tiết lộ một người trong nhóm mười hai môn đệ sắp phản bội Ngài: “Thật, Thầy bảo các con: một người trong các con, đang ăn với Thầy đây, sẽ phản bội Thầy” (Mc 14,18).
Những lời thật mạnh mẽ
Chúa Giêsu không thốt lên để lên án, nhưng để chứng tỏ tình yêu, khi chân thực, không thể bỏ qua sự thật. Căn phòng ở lầu trên, nơi vừa được chuẩn bị kỹ lưỡng, nay bất ngờ đầy nỗi đau khổ thầm lặng, với những thắc mắc, nghi ngờ, và sự dễ bị tổn thương. Đó là một đau khổ mà chúng ta cũng trải qua khi mà, trong những tương quan yêu quý nhất, có bóng dáng của sự phản bội.
Thế nhưng, cách thức Chúa Giêsu nói về điều sắp xảy ra thật là đáng ngạc nhiên. Ngài không lên giọng, không chỉ tay, không nói tên Giuđa. Ngài nói một cách mà mỗi người có thể tự vấn. Và chính đó là điều đang xảy ra: “Họ bắt đầu buồn sầu và nói với Ngài, lần lượt từng người một: “Thưa Thầy, có phải con hay không?” (Mc 14,19).
Câu hỏi liên hệ tới mỗi người
Đức Thánh cha nói tiếp: “Anh chị em thân mến, câu hỏi này ‘Có phải con hay không?’ - có lẽ thuộc vào những câu hỏi chân thành nhất chúng ta có thể đặt ra cho mình. Đó không phải là câu hỏi của người vô tội, nhưng là của môn đệ khám phá thấy mình mong manh yếu đuối. Đó không phải là tiếng kêu của kẻ có tội, nhưng là tiếng thì thào của người, tuy muốn yêu thương, nhưng biết là có thể gây tổn thương. Chính trong sự ý thức này mà hành trình ơn cứu độ bắt đầu.
Chúa Giêsu không tố giác để hạ nhục. Ngài nói sự thật vì Ngài muốn cứu độ. Và để được cứu độ thì cần cảm thấy: cảm thấy mình có liên hệ, cảm thấy mình được yêu thương, dù thế nào đi nữa, cảm thấy sự ác là thực sự nhưng nó không phải là tiếng nói cuối cùng. Chỉ có người biết sự thật về một tình yêu sâu xa mới có thể chấp nhận cả vết thương của một sự phản bội.
Phản ứng của các môn đệ không phải là giận dữ, nhưng là buồn sầu. Họ không phẫn nộ, nhưng buồn sầu. Đó là một đau khổ nảy sinh từ sự có thể thực sự có can dự. Và chính sự buồn sầu này, nếu được đón nhận chân thành, thì nó trở thành nơi hoán cải. Tin mừng không dạy chúng ta phủ nhận sự ác, nhưng nhìn nhận nó như cơ hội đau thương để tái sinh.
Rồi Chúa Giêsu thêm một câu làm cho chúng ta lo lắng và suy nghĩ: “Khốn cho người nào từ đó mà Con Người bị phản bội! Chẳng thà người ấy không sinh ra thì hơn!” (Mc 14,21). Hẳn thật đó là những lời cứng rắn, nhưng cần được hiểu rõ: đây không phải là một sự nguyền rủa, nhưng đúng hơn là một tiếng kêu đau thương. Trong tiếng Hy Lạp, từ “khốn cho” vang lên như một lời than, một tiếng kêu than cảm thông chân thành và sâu xa.
Chúng ta quen phán xét. Trái lại, Thiên Chúa chấp nhận chịu đau khổ. Khi Ngài thấy sự ác, Ngài không báo thù, nhưng đau khổ, và câu ‘Tốt hơn nó không bao giờ sinh ra’ không phải là một bản án giáng xuống một cách tiên thiên, nhưng là một sự thật mà mỗi người chúng ta có thể nhìn nhận: nếu chúng ta chối bỏ tình thương đã sinh ra chúng ta, nếu khi phản bội chúng ta trở nên bất trung đối với chính mình, thì khi ấy chúng ta lạc mất chính ý nghĩa cuộc sống của chúng ta đã đến trong trần thể và tự loại mình khỏi ơn cứu độ.
Thế nhưng, chính tại đó, trong điểm đen tối nhất, ánh sáng không tắt lịm. Trái lại, nó bắt đầu chiếu sáng. Vì nếu chúng ta nhìn nhận những giới hạn của mình, nếu chúng ta để cho đau khổ của Chúa Kitô đánh động, thì sau cùng, chúng ta có thể tái sinh. Đức tin không chuẩn chước cho chúng ta khả thể phạm tội, nhưng luôn cống hiến cho chúng ta một con đường đi ra khỏi tội lỗi: con đường thương xót.
Chúa Giêsu không lấy làm gương mù khi đứng trước sự mong manh yếu đuối của chúng ta. Ngài biết rõ rằng không có tình bạn nào mà không có nguy cơ bị phản bội. Nhưng Chúa tiếp tục tín nhiệm. Ngài tiếp tục ngồi cùng bàn với các môn đệ. Ngài không từ khước bẻ bánh cho cả người sẽ phản bội Ngài. Đây là sức mạnh thầm lặng của Thiên Chúa: Ngài không bao giờ từ bỏ tình thương, cả khi ngài biết sẽ bị bỏ mặc một mình.
Và Đức Thánh cha kết luận: “Anh chị em thân mến, cả chúng ta hôm nay cũng có thể chân thành tự hỏi: ‘Có phải con hay không?’ Không phải để cảm thấy bị cáo buộc, nhưng để mở ra một không gian cho sự thật trong con tim chúng ta. Ơn cứu độ bắt đầu từ đây: từ ý thức rằng chúng ta có thể phá tan lòng tín thác nơi Thiên Chúa, nhưng chúng ta cũng có thể đón nhận, bảo tồn và canh tân lòng tín thác ấy.
Xét cho cùng, đây là hy vọng: biết rằng dù chúng ta có thể thất bại, Thiên Chúa không bao giờ thiếu tình thương. Cả khi chúng ta có thể phản bội, Chúa không ngừng yêu thương chúng ta. Và nếu chúng ta để cho tình thương ấy đến với chúng ta, thì thực sự chúng ta có thể tái sinh, và bắt đầu sống, không phải như kẻ phản bội, nhưng như những người con luôn được yêu thương”.
Chào thăm
Bài huấn dụ của Đức Thánh cha được các độc viên tóm tắt bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau, kể cả tiếng Hoa và Arập, cùng với các lời chào thăm và nhắn nhủ của ngài. Đức Thánh cha không quên nhắc đến lễ trọng Đức Mẹ Hồn xác lên trời, ngày 15 tháng Tám và phó thác các tín hữu hiện diện cũng như gia đình họ cho sự chăm sóc từ mẫu của Mẹ Maria. Ngài nói: “Nhờ sự chuyển cầu của Đức Mẹ, ước gì anh chị em được củng cố giữa những yếu đuối, an ủi anh chị em giữa những khó khăn và ban cho anh chị em niềm vui và an bình của Chúa Kitô, Con Thiên Chúa. Xin Chúa chúc lành cho anh chị em”.
Với các tín hữu Ba Lan, Đức Thánh cha nhắc đến lễ kính nhớ thánh Maximilianô Maria Kolbê, ngày 14 tháng Tám, người đã tình nguyện chết thay cho một người cha gia đình trong tại tập trung của Đức quốc xã ở Auschwitz, và nói: “Tôi khuyến khích anh chị em noi gương anh dũng của thánh nhân, hy sinh cho tha nhân. Nhờ lời chuyển cầu của thánh nhân, anh chị em hãy cầu xin Chúa ban ơn hòa bình cho mọi dân tộc đang trong thảm trạng chiến tranh”.
Buổi Tiếp kiến chung kết thúc với kinh Lạy Cha và phép lành của Đức Thánh cha.
Trực tiếp
