Đức Thánh cha cử hành thánh lễ Năm Thánh cho giới Truyền giáo và các Di dân

Lúc 10 giờ 30, sáng Chúa nhật ngày 05 tháng Mười vừa qua, Đức Thánh cha Lêô XIV đã cử hành thánh lễ tại Quảng trường Thánh Phêrô cho hơn 80.000 tín hữu, họ đứng tràn tới cuối đường Hòa Giải. Đặc biệt, trong đó có các tham dự viên Ngày Năm Thánh dành cho giới Truyền giáo, gồm các thừa sai giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân, các nhân viên mục vụ tại các xứ truyền giáo, các thừa sai Fidei donum, Hồng ân đức tin, cũng như các tổ chức khác nhau liên quan đến thế giới truyền giáo. Đông đảo nhất trong số các tham dự viên, ngoài những người Ý, còn có Mỹ, Tây Ban Nha, Ba Lan, Thụy Sĩ, Philippines, và nhiều nước khác.

G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA

Trời mưa nhẹ trong phần đầu thánh lễ, nhưng sau đó, trời tạnh.

Trong số các tín hữu dự lễ, cũng có khoảng 10.000 tín hữu đến từ 95 quốc gia tham dự Ngày Năm Thánh dành cho những người di dân, tiến hành vào cuối tuần này, đông nhất từ Ý, Mỹ, Canada, Thụy Sĩ, nhiều nước Âu châu, Phi châu, Philippines và Ấn Độ.

Đồng tế với Đức Thánh cha, có hơn 30 hồng y và giám mục, đứng đầu là hai hồng y Antonio Tagle, Bộ trưởng Bộ Loan báo Tin mừng và Đức Hồng y Michael Czerny, Bộ trưởng Bộ Phát triển nhân bản toàn diện. Ngoài ra, thánh lễ có khoảng 200 linh mục đồng tế.

Bài giảng

Trong bài giảng thánh lễ, Đức Thánh cha mời gọi các tín hữu tái ý thức về ơn gọi truyền giáo và hãy loan báo Tin mừng trong cuộc sống hằng ngày. Nhưng trước đó, ngài đặc biệt nhắc đến và giải thích vấn nạn tại sao Thiên Chúa dường như vắng bóng trước bao nhiêu lời kêu cầu của các tín hữu đang đối diện với bao nhiêu tai ương và đau khổ.

Đức Thánh cha nói: “Chúng ta có mặt ở đây, cạnh mộ thánh tông đồ Phêrô, để mỗi người chúng ta có thể vui mừng nói rằng: toàn thể Hội Thánh là truyền giáo, - và như Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nói -, “điều thật cấp thiết là Giáo hội phải ra đi loan báo Tin mừng cho mọi người, ở khắp mọi nơi, trong mọi dịp, không chần chừ, không sợ hãi và không e dè” (Tông huấn Niềm vui Tin Mừng - Evangelii gaudium, 23).

Chúa Thánh Thần sai chúng ta tiếp tục công trình của Chúa Kitô nơi những vùng ngoại biên của thế giới, những nơi còn bị chiến tranh, bất công và đau khổ. Trước những cảnh tượng u tối ấy, lại vang lên tiếng kêu đã bao lần trong lịch sử được gửi đến Thiên Chúa: “Lạy Chúa, sao Ngài không can thiệp? Sao Ngài dường như vắng mặt?” Tiếng kêu đau thương ấy chính là một hình thức cầu nguyện được bày tỏ trong toàn bộ Kinh Thánh; và sáng nay, chúng ta đã nghe lời của ngôn sứ Habacúc trong bài đọc thứ I của thánh lễ: “Lạy Chúa, cho đến bao giờ con kêu cứu mà Chúa chẳng nghe? ... Sao Chúa để con thấy cảnh bất công và cứ đứng nhìn cảnh áp bức?” (Hb 1,2-3).

Từ đây, Đức Thánh cha nhắc lại rằng: “Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI, khi viếng thăm trại tập trung Auschwitz bên Ba Lan, đã lắng nghe và mang trong lòng những câu hỏi đó. Sau này, trong một bài giáo lý, ngài nói: “Thiên Chúa im lặng, và sự im lặng ấy xé nát tâm hồn người cầu nguyện, những người vẫn không ngừng kêu xin mà chẳng thấy được đáp lời... Thiên Chúa dường như quá xa vời, quá quên lãng, quá vắng bóng.” (Giáo lý, 14 tháng 9 năm 2011).

Tuy nhiên, câu trả lời của Chúa lại mở ra cho chúng ta niềm hy vọng. Nếu như ngôn sứ Habacuc tố cáo sức mạnh ghê gớm của sự dữ dường như thắng thế, thì Chúa lại báo cho ông biết rằng tất cả điều ấy sẽ có hồi kết, sẽ chấm dứt, vì ơn cứu độ chắc chắn sẽ đến và không chậm trễ: “Kìa, kẻ kiêu ngạo thì sẽ gục ngã, còn người công chính thì sẽ sống nhờ lòng tin của mình.” (Kb 2,4).

Viễn tượng sự sống mới

Đức Thánh cha khẳng định rằng: “Như thế, có một sự sống mới, một cơ hội cứu độ mới phát sinh từ đức tin - vì đức tin không chỉ giúp chúng ta kiên vững chống lại sự dữ bằng cách bền tâm làm điều thiện, nhưng còn biến đổi cuộc đời chúng ta, khiến nó trở thành khí cụ của ơn cứu độ mà Thiên Chúa vẫn đang thực hiện giữa thế giới hôm nay. Và như Chúa Giêsu nói trong Tin mừng, đó là một sức mạnh dịu hiền: đức tin không áp đặt bằng quyền lực hay những cách phi thường; chỉ cần một đức tin nhỏ như hạt cải, người ta đã có thể làm được những điều không thể tưởng (x. Lc 17,6), bởi vì trong đó ẩn chứa sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa, Đấng mở ra những con đường cứu độ.”

Cộng tác thực hiện ơn cứu độ

Đức Thánh cha giải thích rằng: “Ơn cứu độ ấy được thực hiện khi chúng ta dấn thân và chăm sóc tha nhân với lòng cảm thương của Tin Mừng, và khi ơn cứu độ âm thầm lan tỏa qua những cử chỉ và lời nói thường nhật, tuy nhỏ bé nhưng lại giống như hạt giống nhỏ Chúa Giêsu nói tới; và ơn cứu độ lớn lên dần khi chúng ta trở nên “những đầy tớ vô dụng”, nghĩa là phục vụ Tin mừng và anh em không vì lợi ích riêng, mà chỉ để mang tình yêu của Chúa vào trong thế giới.

Với niềm tín thác ấy, chúng ta được mời gọi làm cho ngọn lửa ơn gọi truyền giáo tái bùng lên. Như thánh Phaolô VI Giáo hoàng đã nói: “Bổn phận của chúng ta là loan báo Tin mừng trong giai đoạn phi thường của lịch sử nhân loại, một thời đại thật chưa từng có, trong đó, song song với những đỉnh cao tiến bộ chưa từng đạt được, còn có những vực sâu của hoang mang và tuyệt vọng cũng chưa từng có.” (Sứ điệp cho Ngày Thế Giới Truyền Giáo, 25 tháng 6 năm 1971).

Anh chị em thân mến, hôm nay chúng ta cử hành Năm Thánh của Giới Truyền giáo và người Di dân. Đây là một dịp tốt để làm sống lại trong chúng ta ý thức về ơn gọi truyền giáo, phát sinh từ ước muốn đem đến cho mọi người niềm vui và sự an ủi của Tin mừng, đặc biệt là cho những ai đang sống trong những hoàn cảnh đau thương và bị tổn thương.

Tôi đặc biệt nghĩ đến những anh chị em di dân, những người đã buộc phải rời bỏ quê hương mình, thường là phải chia lìa những người thân yêu, băng qua những đêm tối của sợ hãi và cô đơn, phải chịu đựng trên chính thân mình sự phân biệt đối xử và bạo lực.

Hôm nay, trong lịch sử Giáo hội, mở ra một kỷ nguyên truyền giáo mới. Nếu trước đây, sứ mạng truyền giáo gắn liền với việc “ra đi”, đến với những miền xa xôi chưa biết đến Tin mừng hay đang trong cảnh nghèo đói, thì ngày nay biên giới của sứ mạng không còn là địa lý nữa, bởi vì sự nghèo khổ, đau khổ và khát vọng về một niềm hy vọng lớn lao hơn lại chính là những gì đang tiến về phía chúng ta.

Điều ấy được minh chứng qua tiểu sử của biết bao anh chị em di dân - thảm kịch của những cuộc trốn chạy bạo lực, nỗi đau thầm lặng, nỗi sợ không thể vượt qua, hiểm nguy của những hành trình vượt biển, tiếng kêu đầy đau thương và tuyệt vọng của họ.

Anh chị em thân mến, những con thuyền mong tìm được bến cảng an toàn, những ánh mắt chất chứa âu lo và hy vọng đang tìm kiếm một mảnh đất yên bình để cập bến, không thể và không được gặp phải sự lạnh lùng của dửng dưng hay vết nhơ của kỳ thị!

Ngày nay, truyền giáo không chỉ là “ra đi”, nhưng còn là “ở lại” - để loan báo Chúa Kitô qua sự đón tiếp, lòng cảm thông và tinh thần liên đới: ở lại là không trốn vào sự thoải mái của chủ nghĩa cá nhân; ở lại, để đối diện với những người đến từ những vùng đất xa xôi bị tàn phá; ở lại, để mở rộng vòng tay và con tim, đón nhận họ như anh em, trở thành cho họ dấu chỉ của niềm an ủi và hy vọng.

Có biết bao nữ tu, tu sĩ truyền giáo, cũng như giáo dân và người thiện chí, đang phục vụ người di dân, thăng tiến một nền văn hóa huynh đệ mới về di cư, vượt lên trên mọi định kiến và khuôn mẫu. Nhưng sứ vụ quý giá này cũng mời gọi mỗi người chúng ta, trong khả năng nhỏ bé của mình, dấn thân thực hiện - bởi vì như Đức Giáo hoàng Phanxicô nói, đây là thời điểm để toàn thể chúng ta trở nên “luôn ở trong trạng thái truyền giáo” (Evangelii gaudium, 25).

Điều đó đòi hỏi ít nhất hai dấn thân lớn trong sứ vụ truyền giáo, đó là sự hợp tác truyền giáo, và Ơn gọi truyền giáo.

Cụ thể, Đức Thánh cha nói:

Trước hết, tôi xin anh chị em đẩy mạnh sự hợp tác truyền giáo mới giữa các Giáo hội. Trong các cộng đoàn Kitô kỳ cựu như ở phương Tây, sự hiện diện của nhiều anh chị em từ Nam bán cầu cần được nhìn nhận như một cơ hội quý báu để trao đổi, canh tân khuôn mặt của Hội Thánh và khơi dậy một Kitô giáo cởi mở hơn, sống động hơn, năng động hơn.

Đồng thời, các nhà truyền giáo được sai đi đến các vùng đất khác, được mời gọi sống trong các nền văn hóa mà họ gặp gỡ với lòng tôn trọng sâu xa, hướng tất cả những gì tốt đẹp và cao quý nơi đó về điều thiện, và mang đến lời tiên tri của Tin mừng.

Tôi cũng muốn nhắc lại vẻ đẹp và tầm quan trọng của ơn gọi truyền giáo. Tôi đặc biệt ngỏ lời với Giáo hội tại châu Âu: ngày nay cần có một sức bật truyền giáo mới, cần có giáo dân, tu sĩ và linh mục sẵn sàng dấn thân phục vụ tại các vùng đất truyền giáo, cần có những chương trình và kinh nghiệm ơn gọi mới có khả năng đánh thức khát vọng ấy, nhất là nơi người trẻ. “Đồng thời, các cộng đoàn ở Nam bán cầu cũng được mời gọi phân định kỹ lưỡng động lực ơn gọi của những ai mong muốn trở thành nhà truyền giáo.”