Giáo hội có thêm ba Đấng đáng kính

Bishop Alejandro Labaka Ugarte, one of the newly declared Venerables, was killed by Indigenous people in Ecuador in 1987. | Vatican News
Giáo hội có thêm ba Đấng đáng kính mới, gồm hai thừa sai tại Ecuador và một giám mục Ấn Độ.

G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA

Hôm 22 tháng Năm vừa qua, sau khi được Đức Thánh cha Lêô tiếp kiến, Đức Hồng y Marcello Semeraro, Tổng trưởng Bộ Phong thánh, đã công bố ba sắc lệnh liên quan đến án phong chân phước cho ba vị tôi tớ Chúa:

Trước tiên là Đức cha Alejandro Labka Ugarte, thuộc Dòng Capuchino, Đại diện Tông tòa Giáo phận Aguarico, sinh năm 1920 tại Tây Ban Nha, và qua đời năm 1987 tại vùng Tiguino bên Ecuador.

Trong tư cách là giám mục, ngài quyết định rằng để tránh cuộc đụng độ đẫm máu giữa những người đánh thuê thuộc các công ty cũng như cần đích thân nói đến những rủi ro khi tiếp xúc với một bộ lạc thù nghịch đối với những người ngoại quốc, nhưng sáng ngày 21 tháng Bảy năm 1987, Đức cha đã yêu cầu được chở bằng trực thăng đến nơi đã thỏa thuận. Ngày hôm sau, một trực thăng khác sẽ trở lại để đón hai người. Nhưng chuyến bay thứ hai này, họ thấy thi thể của Đức cha và chị Agnese Arango Velásquez đầy những vết giáo và cung tên. Máy bay đã đáp xuống để lấy xác.

Như cuộc điều tra của giáo phận cho thấy đây là một sự dâng hiến mạng sống nhân danh sự trung thành với sứ mạng. Sự dâng hiến này cũng được làm chứng bằng lá thư nữ tu Inès đã viết trước khi đi, trong đó chị ghi những sắp xếp, giống như một di chúc. Cái chết của hai vị tôi tớ Chúa này đã có tiếng vang lớn, phản ánh sự thánh thiện của hai người kèm theo một số dấu lạ.

Sắc lệnh của Bộ Phong thánh nhìn nhận hai vị tôi tớ Chúa trên đây đã “Dâng hiến mạng sống”, chiếu theo tự sắc Maiorem hac dilectionem do Đức Giáo hoàng Phanxicô ban hành, ngày 12 tháng Bảy năm 2017. Đây là con đường thứ ba để được phong chân phước, cùng với con đường tử đạo và con đường thực thi các nhân đức Kitô giáo tới mức độ anh hùng.

Vị Đáng kính thứ ba là Đức cha Matteo Makil, người Ấn Độ, sáng lập dòng các Nữ tu Đức Mẹ Thăm Viếng. Ngài sinh năm 1851 tại Manjoor trong một gia đình Công giáo khá giả. Sau khi trở thành linh mục, cha hoạt động mục vụ tại giáo xứ cho đến năm 1889 thì được bổ nhiệm làm Tổng đại diện giáo phận Kottayam, và ba năm sau thành lập dòng các nữ tu với sứ mạng chính là giáo dục các trẻ nữ. Hoạt động mục vụ năng động của ngài đưa ngài đến trách nhiệm Đại diện Tông tòa Giáo phận Changanacherry. Đức cha cổ võ việc giảng dạy giáo lý, học đường, thiết lập các hội đoàn và tổ chức tôn giáo, chiến đấu chống nghèo đói tại nhiều nơi trong xã hội bấy giờ, cũng như khích lệ đời sống thánh hiến.

Ngài cũng không để mình bị nản chí vì những tranh cãi ở địa phương giữa những người gọi là “bắc phương”, coi mình là con cháu của cộng đoàn cho thánh Tôma Tông đồ thành lập cũng như những người “Nam phương” coi mình là con cháu những người di cư từ miền Mesopotamia.

Đức cha Makil có khẩu hiệu giám mục là “Thiên Chúa là niềm hy vọng của tôi”. Ngài tìm cách tái lập an bình giữa hai cộng đoàn cạnh tranh nhau và đã xin Tòa Thánh chia giáo phận Đại diện Tông tòa Changanacherry thành hai Giáo hạt chuyên biệt: một cho người Bắc phương và một cho người Nam phương. Đức Giáo hoàng Piô X chấp nhận đề nghị này và ủy cho Đức cha Makil coi sóc. Ngài qua đời năm 1914 sau một cơn bệnh ngắn.

(Vatican News 22-5-2025)