Đức Thánh cha cử hành thánh lễ với khoảng 100.000 tín hữu tại Liban
Hoạt động cuối cùng của Đức Thánh cha Lêô XIV trong cuộc viếng thăm Liban là thánh lễ ngài cử hành lúc quá 10 giờ sáng, ngày 02 tháng Mười Hai tại địa điểm gọi là Beirut Waterfront: một khu vực ven biển giữa bến du thuyền và trung tâm thủ đô.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Khu đất này được tạo nên từ việc san lấp biển bằng đất đá và đống đổ nát từ trung tâm Beirut - nơi bị san bằng vào cuối cuộc Nội chiến Liban - trước khi bắt đầu tái thiết. Solidere, một công ty cổ phần của Liban chịu trách nhiệm quy hoạch và tái thiết khu trung tâm thủ đô, đã và đang phát triển khu Waterfront qua nhiều giai đoạn như một mô hình phát triển đô thị.
Khi đến đây, Đức Thánh cha đã dùng xe Papamobile tiến qua các lối đi của khu vực hành lễ để chào thăm hàng trăm ngàn tín hữu reo hò và vui mừng chào đón ngài. Họ vẫy những lá cờ nhỏ: cờ Tòa Thánh và cờ Liban.
Trên lễ đài đã có khoảng 60 vị Thượng phụ, Hồng y và Giám mục Trung Đông, cùng với hàng trăm linh mục đồng tế chờ sẵn. Hiện diện ở hàng ghế đầu, trước lễ đài có Tổng thống Joseph Aoun và Phu nhân, cùng với Thủ tướng và các quan chức chính quyền Liban.
Thánh lễ có các bài đọc và đáp ca bằng tiếng Anh, tiếng Arập và tiếng Pháp, với sự phụ họa của một ca đoàn hùng hậu.
Bài giảng của Đức Thánh cha
Trong bài giảng thánh lễ, Đức Thánh cha nói:
“Kết thúc những ngày đầy sôi động mà chúng ta đã cùng nhau sống trong niềm vui, hôm nay chúng ta dâng lời tạ ơn Chúa vì bao ân huệ do lòng nhân hậu Người: vì cách Người hiện diện giữa chúng ta, vì Lời Người ban dồi dào, và vì tất cả những gì Người đã cho chúng ta được trải nghiệm cùng nhau.
Như chúng ta vừa nghe trong bài Tin mừng, chính Chúa Giêsu cũng có những lời tạ ơn Chúa Cha; Ngài hướng về Cha và cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha” (Lc 10,21). Tuy nhiên, chiều kích của lời ca ngợi không phải lúc nào cũng có chỗ trong lòng chúng ta. Đôi khi, vì bị đè nặng do những vất vả của cuộc sống, lo lắng trước vô số vấn đề vây bủa, tê liệt vì bất lực trước sự dữ, và bị áp bức do biết bao hoàn cảnh khó khăn, chúng ta lại dễ buông xuôi và than trách hơn là để trái tim mở ra kinh ngạc và cảm tạ.
Hỡi người dân Liban thân yêu, tôi muốn đặc biệt gửi đến anh chị em lời mời gọi hãy vun trồng tâm tình ngợi khen và biết ơn. Anh chị em là những người được Chúa trao tặng vẻ đẹp hiếm có, làm phong phú miền đất này; nhưng đồng thời anh chị em cũng là chứng nhân và là nạn nhân của bao sự dữ, dưới nhiều hình thức, có thể làm mờ nhạt vẻ huy hoàng đó.
Từ quảng trường rộng lớn nhìn ra biển này, tôi cũng có thể chiêm ngắm vẻ đẹp của Liban được Kinh thánh ca tụng. Chính Chúa đã trồng nơi đây những cây trắc bá cao lớn, nuôi dưỡng và làm chúng trổ sinh (x. Tv 104,16); Người làm cho áo xiêm của người bạn tình trong Diễm Ca ngát hương thơm từ mảnh đất này (x. Dc 4,11); và với Giêrusalem, thành thánh được phủ ánh sáng vì Đấng Thiên Sai sẽ đến, Người đã loan báo: “Vinh quang của Liban sẽ đến với ngươi, với cây bách, cây du và cây tùng, để trang hoàng nơi Thánh điện của Ta, để làm vinh hiển chỗ Ta đặt chân” (Is 60,13).
Tuy vậy, vẻ đẹp đó cũng bị che phủ vì nghèo đói và đau khổ, những vết thương hằn sâu trong lịch sử của anh chị em - tôi vừa đến cầu nguyện tại nơi xảy ra vụ nổ ở cảng -; bị che phủ bởi biết bao vấn đề đang đè nặng, do một bối cảnh chính trị mong manh và thường xuyên bất ổn, do khủng hoảng kinh tế trầm trọng đang đè nặng trên anh chị em, do bạo lực và xung đột làm trỗi dậy những nỗi sợ xưa cũ.
Đức Thánh cha nhận xét: “Trong một bối cảnh như thế, lòng biết ơn dễ dàng nhường chỗ cho sự mất niềm tin; tiếng ca ngợi khó tìm được chỗ trong sự hoang mang của con tim; nguồn mạch hy vọng bị khô cạn bởi bất định và rối loạn. Thế nhưng, Lời Chúa mời gọi chúng ta tìm ra những ánh sáng nhỏ bé đang chiếu rạng giữa đêm tối, để mở lòng ra đón nhận tâm tình biết ơn và để thúc đẩy chúng ta dấn thân cùng nhau vì mảnh đất này.
Như chúng ta đã nghe, lý do Chúa Giêsu tạ ơn Chúa Cha không phải vì những việc phi thường, nhưng vì Chúa Cha đã mạc khải sự cao cả của Người cho những kẻ bé mọn và khiêm nhu, cho những người không thu hút ánh nhìn của thế gian, tưởng như không có giá trị, không có tiếng nói. Vương Quốc mà Chúa Giêsu đến khai mở mang đặc tính mà ngôn sứ Isaia loan báo: đó là một chồi non, một mầm nhỏ mọc lên từ gốc cây (x. Is 11,1); một niềm hy vọng nhỏ bé hứa hẹn sự hồi sinh khi mọi sự dường như đang chết dần. Đấng Mêsia được loan báo như thế, và khi đến trong sự bé nhỏ của một mầm non, Người chỉ có thể được nhận ra bởi những ai bé nhỏ: những người không đòi hỏi điều lớn lao nhưng biết nhận ra dấu hiệu ẩn giấu, những vết tích của Thiên Chúa trong một lịch sử tưởng như bị đánh mất.
Điều đó cũng là lời chỉ dẫn cho chúng ta, để chúng ta biết mở mắt nhận ra sự bé nhỏ của những mầm sống đang mọc lên và lớn lên ngay giữa những biến cố đau thương. Những ánh sáng nhỏ chiếu trong đêm tối, những mầm non bé nhỏ đang nhú lên, những hạt giống được gieo vào khu vườn khô cằn của thời đại này - chúng ta cũng có thể nhận ra được; ngay tại đây, ngay hôm nay. Tôi nghĩ đến đức tin đơn sơ và chân thật của anh chị em, được bén rễ trong gia đình và được nuôi dưỡng nơi các trường học Kitô; tôi nghĩ đến công việc kiên trì của các giáo xứ, các dòng tu và các phong trào trong việc đáp lại các nhu cầu và câu hỏi của người dân; tôi nghĩ đến biết bao linh mục và tu sĩ đang dấn thân trong sứ vụ giữa muôn vàn khó khăn; tôi nghĩ đến anh chị em giáo dân đang phục vụ trong các hoạt động bác ái và loan báo Tin mừng trong xã hội. Vì những ánh sáng nhỏ bé đang cố gắng soi rọi màn đêm; vì những mầm non nhỏ bé và gần như vô hình nhưng mở ra hy vọng cho tương lai; hôm nay, chúng ta cũng phải nói với Chúa Cha như Chúa Giêsu đã nói: “Lạy Cha, chúng con ngợi khen Cha!”. Chúng con cảm tạ Cha vì Cha ở cùng chúng con và không để chúng con chao đảo.
Đồng thời, lòng biết ơn này không được dừng lại ở một sự an ủi nội tâm mang tính ảo tưởng. Nó phải dẫn chúng ta đến sự biến đổi của con tim, sự hoán cải của đời sống; phải khiến chúng ta nhớ rằng chính trong ánh sáng đức tin, lời hứa của hy vọng và niềm vui của đức ái mà Thiên Chúa đã nghĩ đến đời sống chúng ta. Vì thế, tất cả chúng ta được mời gọi chăm sóc những mầm non ấy, không nản lòng, không để mình bị cuốn theo logic bạo lực hay sự thờ ngẫu tượng tiền bạc, không buông xuôi trước sự dữ đang lan tràn.
Từ đây, Đức Thánh cha nhấn mạnh: “Mỗi người phải góp phần của mình và tất cả chúng ta phải cùng nhau nỗ lực để đất nước này có thể tìm lại được vẻ đẹp của nó. Và chỉ có một con đường để làm điều đó: hãy giải giới chính trái tim mình, hãy đánh rơi những lớp giáp của những khép kín sắc tộc và chính trị; hãy mở các truyền thống tôn giáo của chúng ta ra cuộc gặp gỡ với nhau; hãy khơi dậy trong thẳm sâu lòng mình ước mơ về một Liban hiệp nhất, nơi hòa bình và công lý chiến thắng; nơi mọi người có thể nhận ra nhau là anh chị em; nơi cuối cùng có thể trở thành hiện thực điều ngôn sứ Isaia mô tả: “Sói sẽ ở với chiên, beo nằm bên dê con, bò tơ và sư tử non sẽ ăn cỏ chung” (Is 11,6).
Đó là giấc mơ được trao vào tay anh chị em; là điều mà Thiên Chúa của hòa bình phó thác cho anh chị em. Hỡi Liban, hãy đứng lên! Hãy là ngôi nhà của công lý và tình huynh đệ! Hãy là lời ngôn sứ của hòa bình cho toàn vùng Cận Đông!
Và Đức Thánh cha kết luận: “Anh chị em thân mến, tôi cũng muốn nói như Chúa Giêsu: “Lạy Cha, con xin ngợi khen Cha”. Tôi dâng lời cảm tạ lên Chúa vì đã được sống những ngày này với anh chị em, mang trong tim tôi những đau khổ và hy vọng của anh chị em. Tôi cầu nguyện cho anh chị em, để mảnh đất Trung Đông này luôn được chiếu sáng bởi đức tin vào Chúa Giêsu Kitô là Mặt Trời Công Chính, và nhờ Người, luôn giữ gìn niềm hy vọng không bao giờ tắt.
Cuối thánh lễ, Đức Hồng y Béchara Rai, Thượng phụ Giáo chủ Công giáo Maronite đã ngỏ lời cám ơn Đức Thánh cha và Đức Thánh cha đã tặng cho Giáo hội địa phương một chén lễ quý giá.
Lời kêu gọi
Trước khi ban phép lành cuối lễ, Đức Thánh cha còn đưa ra những lời kêu gọi sau cùng và nói rằng:
“Anh chị em thân mến, trong những ngày này, với chuyến tông du đầu tiên của tôi được thực hiện trong Năm Thánh, tôi đã mong muốn trở nên một người lữ hành hy vọng tại Trung Đông, nài xin Thiên Chúa ban tặng ơn hòa bình cho miền đất yêu dấu này, vốn bị đánh dấu vì bất ổn, chiến tranh và đau thương.
Các tín hữu Kitô tại Đông phương thân mến, trong khi những kết quả của nỗ lực hòa bình của anh chị em còn chậm đến, tôi mời gọi anh chị em hãy ngước nhìn lên Chúa đang đến! Chúng ta hãy nhìn lên Người với niềm hy vọng và lòng can đảm, mời gọi mọi người bước đi trên con đường chung sống, tình huynh đệ và hòa bình. Hãy là những người xây dựng hòa bình, loan báo hòa bình và làm chứng cho hòa bình!
Trung Đông cần những thái độ mới, để khước từ lối suy nghĩ trả thù và bạo lực, để vượt qua những chia rẽ chính trị, xã hội và tôn giáo, để mở ra những trang mới trong tinh thần hòa giải và hòa bình. Con đường thù hận lẫn nhau và tàn phá trong kinh hoàng của chiến tranh đã bị dấn bước quá lâu, với những kết quả đáng tiếc mà ai cũng thấy. Cần phải thay đổi con đường, cần phải giáo dục con tim biết hướng về hòa bình.
Từ quảng trường này, tôi cầu nguyện cho Trung Đông và cho tất cả các dân tộc đang chịu đau khổ vì chiến tranh. Tôi cũng dâng lời cầu nguyện mong mỏi một giải pháp hòa bình cho những tranh chấp chính trị hiện nay tại Guinea Bissau bên Phi châu. Và tôi không quên các nạn nhân của vụ cháy ở Hồng Kông và gia đình của họ.
Tôi đặc biệt cầu nguyện cho đất nước Liban thân yêu! Một lần nữa tôi kêu gọi cộng đồng quốc tế đừng từ nan bất cứ nỗ lực nào để thúc đẩy các tiến trình đối thoại và hòa giải. Tôi tha thiết kêu gọi những ai đang mang trọng trách chính trị và xã hội, ở đây và tại mọi quốc gia bị chiến tranh và bạo lực tàn phá: hãy lắng nghe tiếng kêu của dân tộc anh chị em đang khẩn cầu hòa bình! Chúng ta hãy cùng nhau phục vụ sự sống, công ích và sự phát triển toàn diện của con người.
Và đối với anh chị em, các Kitô hữu tại Đông phương, những công dân chính danh tại những vùng đất này, tôi nhắc lại: hãy can đảm lên! Toàn thể Giáo hội hướng nhìn về anh chị em với tình thương và lòng ngưỡng mộ. Nguyện Đức Trinh Nữ Maria, Đức Mẹ Harissa, luôn gìn giữ anh chị em!
Sau thánh lễ, Đức Thánh cha còn lưu lại bắt tay, chào từ biệt và cám ơn nhiều người, trước khi ra phi trường quốc tế của thủ đô Beirut của Liban.
Tại đây phi trường, Đức Thánh cha được Tổng thống Joseph Aoun của Liban đón tiếp và tiễn biệt theo nghi thức ngoại giao, rồi ngài lên máy bay Airbus 320neo của hãng Ita Airway để cùng với đoàn tùy tùng và các ký giả trở về Roma. Máy bay cất cánh lúc gần 14g, giờ địa phương và về tới phi trường Fiumicino của thủ đô nước Ý sau bốn giờ bay, kết thúc tốt đẹp chuyến tông du hải ngoại đầu tiên của Đức Thánh cha Lêô.