Công bố Văn kiện của Bộ Giáo lý Đức tin về hôn nhân “Một vợ một chồng”
Hôm 25 tháng Mười Một năm 2025, Bộ Giáo lý Đức tin công bố Văn kiện đề cao hôn nhân một vợ chồng.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Văn kiện mang tên đầy đủ là: “Una Caro. Elogio della monogamia. Nota Dottrinale sul valore del matrimonio come unione esclusiva e appartenenza reciproca” (Một xương một thịt. Lời ca ngợi sự đơn nhất trong hôn nhân. Ghi chú tín lý về giá trị của hôn nhân như một kết hiệp độc hữu và thuộc về nhau).
Văn kiện này được soạn và công bố theo thỉnh cầu của nhiều giám mục Phi châu, nơi mà chế độ đa ta vẫn còn thịnh hành và là một cám dỗ mạnh đối với cả các tín hữu Công giáo.
Văn kiện gồm bảy chương và phần kết luận, đã được giới thiệu trong cuộc họp báo lúc 11 giờ sáng tại Phòng Báo chí Tòa Thánh, do Đức Hồng y Víctor Manuel Fernández, người Argentina, Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin. Cùng với Đức Hồng y, còn có Đức ông Armando Matteo, Tổng Thư ký Phân bộ đạo lý của Bộ, và nữ giáo sư Giuseppina De Simone của Phân khoa Thần học Giáo hoàng miền Nam nước Ý.
Tóm lược
Trong Văn kiện, Bộ Giáo lý Đức tin xác quyết rằng sự đơn hôn không phải là giới hạn, hôn nhân là lời hứa về vô biên, và Bộ đào sâu giá trị của hôn nhân, như “một sự kết hợp độc quyền và thuộc về lẫn nhau”, một sự kết hợp trọn vẹn, trong đó việc tự hiến hoàn toàn cho người kia vẫn tôn trọng phẩm giá của họ. Bộ cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của đức ái vợ chồng và sự chú ý đến người nghèo, lên án bạo lực, cả thể lý lẫn tâm lý: “Hôn nhân không phải là chiếm hữu”. Trong một thời đại cá nhân chủ nghĩa và tiêu thụ, cần giáo dục giới trẻ về tình yêu như trách nhiệm và niềm hy vọng đặt nơi người khác.
Một số nét nổi bật của Văn kiện
“Kết hiệp bất khả phân ly”: đó là cách mà Bản ghi chú giáo lý của Bộ Giáo lý Đức tin (DDF) định nghĩa hôn nhân, tức là “một sự kết hợp độc quyền và thuộc về lẫn nhau”: người tự hiến cho người khác một cách trọn vẹn và hoàn toàn thì chỉ có thể là hai người; nếu không, đó sẽ là việc tự hiến một phần, không tôn trọng phẩm giá của người bạn đời. Không phải ngẫu nhiên mà Văn kiện được Đức Giáo hoàng Lêô XIV phê chuẩn ngày 21 tháng Mười Một vừa qua, nhân lễ Đức Mẹ dâng mình vào Đền thánh, và được giới thiệu với báo chí hôm 25 tháng Mười Một sau đó.
Những lý do của tài liệu
Như Đức Hồng y Tổng trưởng Víctor Manuel Fernández viết trong phần giới thiệu, có ba lý do dẫn tới Văn kiện này:
Trước hết là sự chú ý đến “bối cảnh toàn cầu hiện nay của sự phát triển quyền lực kỹ thuật, khiến con người nghĩ về mình như “một thụ tạo không giới hạn”, và vì thế người ta xa rời giá trị của một tình yêu độc quyền dành cho chỉ một người. Đức Hồng y Tổng trưởng cũng có nhắc đến những cuộc trao đổi với các giám mục châu Phi về vấn đề đa thê, và nói rằng “những nghiên cứu sâu rộng về các nền văn hóa châu Phi” phủ nhận “quan điểm phổ biến” cho rằng hôn nhân đơn hôn là ngoại lệ. Sau cùng, tài liệu ghi nhận rằng ở phương Tây đang gia tăng “đa ái”, tức những hình thức công khai không sống một vợ một chồng.
Sự kết hiệp vợ chồng và sự kết hợp giữa Chúa Kitô và Hội thánh
Trong bối cảnh ấy, văn kiện của Bộ Giáo lý Đức tin muốn nhấn mạnh vẻ đẹp của sự kết hiệp vợ chồng, điều này, “với sự phù trợ của ân thánh”, còn diễn tả “sự kết hợp giữa Chúa Kitô và Hiền Thê yêu dấu của Người là Hội thánh”. Văn kiện này được gửi trước hết cho các giám mục, nhưng cũng muốn trợ giúp giới trẻ, các đôi bạn, và các đôi vợ chồng để họ nhận ra “sự phong phú” của hôn nhân Kitô giáo, qua đó thúc đẩy “một suy tư thanh thản và đào sâu lâu dài” về đề tài này.
Thuộc về nhau dựa trên sự ưng thuận tự do
Văn kiện nhấn mạnh rằng một vợ một chồng không phải là giới hạn, mà là khả năng của một tình yêu mở ra với vĩnh cửu. Hai yếu tố then chốt xuất hiện: sự thuộc về lẫn nhau và tình yêu vợ chồng. Sự thuộc về “dựa trên sự ưng thuận tự do” của đôi vợ chồng, phản ánh hiệp thông Ba Ngôi và trở thành “một động lực mạnh mẽ cho sự bền vững của cuộc kết hợp”. Đó là “sự thuộc về của con tim, nơi chỉ có Thiên Chúa nhìn thấy”, và nơi chỉ mình Ngài có thể đi vào “mà không phá vỡ tự do và căn tính của con người”.
Không xúc phạm đến tự do của người khác
Hiểu như thế, “việc thuộc về lẫn nhau vốn có của tình yêu độc quyền hàm chứa một sự chăm sóc tinh tế, một sự kính sợ thánh thiện, tránh xúc phạm đến tự do của người phối ngẫu, vốn có cùng phẩm giá và do đó có cùng quyền lợi”. Bởi vì ai yêu thì biết rằng “người kia không thể là phương tiện để giải quyết những bất mãn của mình”, và biết rằng khoảng trống trong lòng mình không bao giờ được lấp đầy “bằng cách thống trị người khác”. Về điều này, Văn kiện lên án “bao hình thức ham muốn lệch lạc dẫn đến những biểu hiện khác nhau của bạo lực thô bạo hoặc tinh vi, áp bức, áp lực tâm lý, kiểm soát và cuối cùng là sự ngột ngạt”. Đó là “thiếu tôn trọng và vị nể đối với phẩm giá của người phối ngẫu”.
Hôn nhân không phải là chiếm hữu
Ngược lại, quan niệm lành mạnh về “hai người chúng ta” hàm “sự tương hỗ của hai tự do không bao giờ bị vi phạm, luôn tự chọn nhau, luôn giữ an toàn một giới hạn không thể vượt qua”. Điều này xảy ra khi “con người không bị tan biến trong mối quan hệ, không hòa lẫn vào người mình yêu”, trong sự tôn trọng của mọi tình yêu lành mạnh “không bao giờ muốn hút mất người kia”. Văn kiện của Bộ nhấn mạnh rằng đôi vợ chồng có thể “hiểu và chấp nhận” một khoảng lặng suy tư hay một chút không gian riêng hoặc tự chủ được một trong hai người yêu cầu, vì “hôn nhân không phải là chiếm hữu”, không phải “sự đòi hỏi một bình an tuyệt đối”, cũng không phải sự giải thoát hoàn toàn khỏi cô đơn (vì chỉ có Thiên Chúa mới có thể lấp đầy khoảng trống mà con người cảm thấy), nhưng là sự tín thác và khả năng đương đầu với những thách đố mới. Đồng thời, đôi vợ chồng được mời gọi không khước từ nhau, vì “khi khoảng cách trở nên quá thường xuyên, “hai người chúng ta” dễ rơi vào nguy cơ bị lu mờ”. Cầu nguyện, phương thế quý giá để tăng trưởng trong tình yêu.
Sự thuộc về lẫn nhau cũng được biểu lộ trong sự giúp đỡ nhau trưởng thành như con người: ở đây, cầu nguyện là “một phương thế quý giá” nhờ đó đôi vợ chồng có thể thánh hóa nhau và lớn lên trong tình yêu. Như thế, đức ái vợ chồng trở thành “sức mạnh hiệp nhất”, là “hồng ân của Thiên Chúa” được cầu xin trong lời nguyện và được nuôi dưỡng trong đời sống bí tích, và chính trong hôn nhân, nó trở thành “tình bạn lớn lao nhất” giữa hai con tim gần gũi, “láng giềng”, yêu thương nhau và cảm thấy “nhà của mình” nơi nhau.
Tính dục và sự sinh hoa kết trái
Nhờ sức mạnh biến đổi của tình yêu, cũng có thể hiểu tính dục “trong thân xác và linh hồn”, nghĩa là không như một xung động hay sự xả căng thẳng (stress), nhưng như “một món quà kỳ diệu của Thiên Chúa” hướng về việc hiến thân và mưu ích cho người khác, được đón nhận trong toàn thể nhân vị của họ. Tình yêu vợ chồng cũng tuôn đổ vào sự sinh hoa kết trái, “dù điều này không có nghĩa đây phải là mục đích minh nhiên của mọi hành vi vợ chồng”. Ngược lại, hôn nhân vẫn giữ bản chất của nó ngay cả khi không có con. Tài liệu nhắc thêm về sự hợp pháp của việc tôn trọng những thời kỳ tự nhiên vô sinh.
Mạng xã hội và sự cấp thiết của một nền sư phạm mới
Tuy nhiên, “trong bối cảnh chủ nghĩa cá nhân tiêu thụ hậu hiện nay” vốn phủ nhận mục đích hiệp nhất của tính dục và hôn nhân, làm sao có thể bảo vệ khả năng của một tình yêu chung thủy? Câu trả lời, theo tài liệu, nằm ở giáo dục: “Thế giới của các mạng xã hội, nơi sự e thẹn biến mất và những bạo lực biểu tượng và tính dục gia tăng, cho thấy sự cấp thiết của một nền sư phạm mới”. Cần phải “chuẩn bị các thế hệ đón nhận kinh nghiệm tình yêu như một mầu nhiệm nhân học”, trình bày tình yêu không như một thôi thúc sinh lý nhưng như một lời gọi đến trách nhiệm, và là “khả năng hy vọng của toàn thể con người”.
Sự quan tâm đến người nghèo - “thuốc giải” cho sự khép kín nội bộ
Tình yêu vợ chồng còn được nhìn thấy nơi các đôi không khép mình trong chủ nghĩa cá nhân, nhưng mở ra cho những dự án chung “để làm điều gì tốt đẹp cho cộng đồng và thế giới”, vì “con người hoàn thành chính mình bằng cách đặt mình trong tương quan với người khác và với Thiên Chúa”. Chẳng vậy, đó chỉ là ích kỷ, tự tham chiếu và sự khép kín cần chống lại - chẳng hạn bằng cách thực hành “ý thức xã hội” của đôi vợ chồng cùng nhau dấn thân tìm kiếm công ích. Trên bình diện này, trọng tâm là sự quan tâm tới người nghèo, vốn - như Đức Lêô XIV khẳng định - là “một chuyện gia đình” của Kitô hữu, chứ không chỉ là “một vấn đề xã hội”.
Tình yêu vợ chồng như lời hứa về vô biên
Tóm lại, Văn kiện của Bộ Giáo lý Đức tin tái khẳng định rằng “mỗi cuộc hôn nhân đích thực là sự hiệp nhất gồm hai cá vị, đòi hỏi một mối tương quan thân mật và trọn vẹn đến mức không thể chia sẻ với người khác”. Vì thế, giữa hai đặc tính thiết yếu của mối dây hôn phối - nhất phu nhất phụ và bất khả phân ly - thì đặc tính thứ nhất là nền tảng cho đặc tính thứ hai. Chỉ như vậy, tình yêu vợ chồng mới là một thực tại năng động, được kêu gọi lớn lên và phát triển liên tục theo thời gian, trong một “lời hứa về vô biên”.
(Vatican News 25-11-2025)