Đức giám mục Maloyan: Thà chết không chối bỏ đức tin

Như đã đưa tin, trong số bảy chân phước sẽ được Đức Thánh cha Lêô XIV tôn phong lên bậc hiển thánh, vào Chúa nhật ngày 19 tháng Mười năm 2025, đứng đầu danh sách là Đức giám mục Ignatio Chouktrallah Maloyan, Tổng giám mục Giáo phận Martin, thuộc Giáo hội Công giáo Armeni, bị một sĩ quan Thổ Nhĩ Kỳ sát hại năm 1915, trong cuộc diệt chủng người Armeni, nhất là sau khi ngài quyết liệt từ bỏ đức tin Kitô để theo Hồi giáo, theo lời khuyến dụ của kẻ bách hại.
Phúc Nhạc | RVA
Thân thế
Shoukr Allah (hay Chukrallah) Maloyan sinh vào tháng Tư năm 1869 tại Mardin, Armeni, con thứ tư trong gia đình tám anh chị em, thuộc một tỉnh ở đông nam Thổ Nhĩ Kỳ.
Armeni, được các thánh tông đồ Giuđa và Batôlômêô rao giảng Tin mừng, đã trở thành một quốc gia Kitô giáo vào năm 305, khi thánh Grêgôriô Vị Soi Sáng Thượng phụ đầu tiên của Armeni, rửa tội cho vua Tiridates. Từ thế kỷ XI, đất nước rơi vào tay người Thổ; tuy nhiên, trong suốt chín thế kỷ sau đó, dân tộc này đã kiên cường giữ gìn ngôn ngữ và đức tin Kitô giáo.
Đại đa số người Armeni thuộc Giáo hội Armeni Tông Truyền, không hiệp thông với Tòa Thánh. Trong số ba triệu dân tại Cộng hòa Armeni hiện nay có khoảng 90% là tín hữu của Giáo hội này, trong khi hàng triệu người khác sinh sống ở hải ngoại.
Giáo hội Công giáo Armeni được thành lập năm 1742, khi có một số giám mục, linh mục và giáo dân Armeni xin trở về hiệp thông với Tòa Thánh và được Đức Giáo hoàng Biển Đức XIV (1740-58) đón nhận. Hiện nay, Giáo hội này có gần 600.000 tín hữu sinh sống tại Liban, Iran, Irak, Ai Cập, Syria, Thổ Nhĩ Kỳ, Israel và nhiều nước khác. Đây là một trong số hai mươi ba Giáo hội Công giáo nghi lễ Đông phương hiệp nhất với Tòa Thánh.
Con đường ơn gọi và tông đồ
Ngay từ nhỏ, Shoukr Allah đã bộc lộ dấu hiệu của ơn gọi tu trì. Năm 14 tuổi, cha xứ gửi cậu đến Bzommar, Liban, để học tại một Chủng viện theo nghi lễ Armeni. Trong 5 năm, cậu học tiếng Armeni, Thổ Nhĩ Kỳ, Ả Rập, Pháp và Ý. Vì sức khỏe yếu, cậu phải ngưng học ba năm, nhưng sau đó được thụ phong linh mục vào ngày 06 tháng Tám năm 1896, và từ đó mang tên cha Ignatio.
Năm 1897, cha được sai đi truyền giáo tại Alexandria, rồi Cairo bên Ai Cập, nơi ngài nhanh chóng nổi tiếng là một linh mục gương mẫu. Cha kể lại: “Từ tối đến sáng, tôi đi thăm bệnh nhân, người nghèo, người túng thiếu. Khi lên giường, tôi hoàn toàn kiệt sức. Không ai chăm lo cho những kẻ khốn cùng này, vì ai cũng lo lợi ích riêng. Riêng tôi, lòng tôi tràn đầy niềm vui, vì biết mình đang làm theo ý Chúa”.
Cha Ignatio được mời giảng tĩnh tâm và thuyết giảng cả bằng tiếng Ả Rập lẫn tiếng Thổ. Với lòng nhiệt thành hiệp nhất Kitô hữu, cha đã tiếp xúc với các Kitô hữu Chính thống Coptic ở Ai Cập và ôn tồn giải đáp những thắc mắc của họ về Giáo hội Công giáo. Những lúc rảnh rỗi, cha học Kinh Thánh và các ngôn ngữ. Năm 1904, Đức Thượng phụ Công giáo Armeni ở Constantinople (Istanbul) bổ nhiệm ngài làm thư ký vì nhận ra tài năng, nhưng vì bệnh tật, ngài trở về Ai Cập cho đến năm 1910.
Được bổ nhiệm giám mục giữa muôn vàn khó khăn
Giáo phận Mardin lúc ấy gặp tình cảnh nan giải: Giám mục địa phương quá già yếu, không thể giải quyết thiếu hụt linh mục và khủng hoảng kinh tế. Ngài xin nghỉ hưu, và Đức Thượng phụ giao quyền điều hành giáo phận cho cha Ignatio. Dù được quê hương chào đón nồng nhiệt, cha Ignatio sớm vấp phải muôn khó khăn. Cha kể: “Tôi đau lòng cho giáo phận này. Sống ở đây là một cực hình; nhưng chính vì vậy mà chúng tôi đã trở thành linh mục”.
Ngày 21 tháng Mười năm 1911, trong Công nghị các Giám mục Armeni tại Roma, cha Ignatio được bầu làm Tổng giám mục Mardin. Trở về, ngài mở trường học, duy trì truyền thống và văn học Armeni, chăm lo mọi khó khăn của giáo dân, nhất là những người bị bách hại vì đức tin.
Diệt chủng Armeni
Từ cuối thế kỷ XIX, Quốc vương Hồi giáo Abdul-Hamid tìm cách đàn áp ý thức dân tộc Armeni, vì sợ gây nguy cho đế quốc Ottoman của mình. Năm 1895, hàng trăm nhà thờ và tu viện bị phá, hàng trăm ngàn tín hữu bị giết, nhiều người khác phải lưu vong. Khi Đức cha Maloyan về nhậm chức, cơn bách hại vẫn chưa dứt. Dù sức khỏe mong manh, ngài tỏ ra can đảm, quan tâm đào tạo linh mục, chủng sinh, và nhắc nhở mọi Kitô hữu cùng chia sẻ trách nhiệm vun trồng ơn gọi.
“Thiên Chúa chăm sóc những ai đau khổ”
Sau khi được bổ nhiệm, Đức cha Maloyan báo cáo với Tòa Thánh: “Dân chúng bị tai họa: khi không hạn hán thì lại châu chấu; và lòng tham tàn nhẫn của chính quyền luôn hiện diện”.
Đức cha xin phép sang Âu - Mỹ để xin viện trợ, nhưng bị từ chối. Đau khổ, ngài xin từ chức, nhưng Thượng phụ không chấp thuận. Dù bị bỏ rơi, ngài vẫn trung thành sứ vụ, nếm trải lời thánh Phaolô: “Thiên Chúa an ủi chúng ta trong mọi cơn gian nan, để chúng ta có thể an ủi kẻ khác trong khốn khó” (2 Cr 1,3-4). Ngài khuyên bề trên Bzommar: “Đừng sợ! Thiên Chúa chăm sóc những ai đau khổ. Tôi cũng đã uống chén đắng ấy; nhưng chén đắng có thể hóa ngọt, nhất là khi được trộn lẫn với chén của chính Đức Kitô”.
Ngày 03 tháng Tám năm 1914, khi đang giảng tĩnh tâm ở Mardin, Đức cha nhận được tin Thổ Nhĩ Kỳ liên minh với Đức - Áo chống Nga, Pháp, Anh. Tháng Mười, chính quyền ép các lãnh đạo tôn giáo Armeni lo tiếp tế quân lính. Lấy cớ truy lùng lính Kitô đào ngũ, họ khám xét nhà thờ, tu viện, xách nhiễu phụ nữ, tịch thu tài sản. Chính quyền ban tặng Đức cha Maloyan một huân chương để che đậy âm mưu. Nhưng viên Thống đốc Diarbekir công khai tuyên bố: “Đã đến giờ quét sạch kẻ thù trong nước - tức Kitô hữu”. Lệnh lan truyền: “Không tha mạng cho bất kỳ Kitô hữu nào”. Các tín hữu bị cướp bóc, giết hại; quân lính, công chức Kitô giáo bị giải ngũ; dân quân được lập ra để giết tín đồ.
“Ước nguyện nồng nhiệt nhất của tôi”
Ngày 24 tháng Tư năm 1915, Bộ trưởng Nội vụ Talaat Pasha của Thổ ra lệnh tiêu diệt người Armeni với lý do phản quốc.
Ngày 30 tháng Tư, quân Thổ bao vây nhà thờ và Tòa giám mục Mardin, vu khống cất giấu vũ khí, rồi phá hủy hồ sơ. Đầu tháng Năm, Đức cha họp các linh mục lại và nói: “Hãy củng cố đức tin! Đặt hy vọng vào Thánh giá trên đá tông đồ Phêrô. Chúa Giêsu đã xây Hội Thánh bằng máu tử đạo. Chúng ta cũng phải sẵn sàng đổ máu... Ước nguyện cháy bỏng nhất của tôi là anh em và đoàn chiên luôn trung thành với Tòa Thánh”.
Đầu tháng Năm, Đức cha tập hợp các linh mục, báo cho họ biết những mối đe dọa đang dấy lên chống lại người Armeni. Ngài khuyên họ cầu nguyện và kiên vững trong đức tin. Sau đó, ngài đọc di chúc tinh thần, trong đó khuyến khích họ coi là một vinh dự lớn khi được đổ máu cùng với các vị tử đạo. Đức cha trao phó họ cho sự chăm sóc của Đức cha Ignatio Tapouni, Tổng Giám mục Công giáo Siriac.
Ngày 03 tháng Sáu, lễ Mình Máu Thánh Chúa, trong bài giảng, Đức cha nhắc lại lời Chúa Giêsu: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống vì Ta thì sẽ được” (Mt 16,25). Tối đó, ngài bị bắt cùng 50 người. Trong những ngày sau, hàng trăm Kitô hữu bị bắt.
“Tôi sẽ không bao giờ chối bỏ đức tin!”
Ra tòa, Đức cha bị vu cáo tàng trữ vũ khí, âm mưu chống chính phủ. Ngài đáp: “Đó chỉ là bịa đặt. Tôi chưa bao giờ chống đối chính quyền. Tôi luôn bảo vệ quyền lợi của họ”. Cảnh sát đánh đập ngài, dụ bỏ đạo, nhưng Đức cha tuyên xưng: “Hãy chặt tôi ra từng mảnh, tôi sẽ không bao giờ chối bỏ đức tin”. Dù bị hành hạ, ngài nói: “Thân xác đau đớn, nhưng linh hồn hân hoan”.
Đêm đó, Đức cha bị trói, đánh đập, nhổ vào mặt, rút móng chân. Trong ngục, ngài cầu nguyện: “Lạy Chúa, tất cả tùy ý Ngài. Xin giúp chúng con trung thành làm chứng cho đức tin này”.
“Vinh quang của tôi là thánh giá”
Đầu tháng Sáu, 1.600 Kitô hữu Mardin bị áp giải đến nơi xử tử. Đức cha Maloyan khích lệ họ xưng tội, rước lễ. Ngài tuyên bố: “Chúng tôi trong tay các ông, nhưng chúng tôi chết cho Chúa Kitô”.
Ngày 11 tháng Sáu năm 1915, lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, các tín hữu bị tàn sát.
Đức cha Maloyan, sau khi chứng kiến đoàn chiên bị giết, bị viên cảnh sát trưởng Mamdouh Bey tra hỏi. Ông ta đề nghị ngài cải sang Hồi giáo để được tha chết, nhưng ngài mạnh mẽ đáp lại là sẽ không bao giờ chối bỏ Chúa Giêsu hay phản bội Giáo hội, và rằng đối với ngài, chịu khổ hình vì Đức Kitô, kể cả cái chết, chính là niềm vui.
Ngay lúc đó, một binh lính tát ngài dữ dội; Mamdouh Bey còn nhiều lần dùng báng súng đánh mạnh vào đầu ngài. Mỗi lần bị đánh, ngài thốt lên: “Lạy Chúa, xin thương xót con; Lạy Chúa, xin ban sức mạnh cho con”. Nghĩ mình sắp chết, Đức cha Maloyan lớn tiếng kêu: “Ai trong các cha nghe thấy, xin ban phép giải tội cho tôi”. Rồi binh lính dùng dụng cụ để nhổ móng chân của ngài và bắt ngài đi bộ.
Bị hỏi lần cuối: có cải sang Hồi giáo không. Đức cha đáp: “Tôi sống và chết cho đức tin, và chỉ đặt vinh quang nơi thánh giá của Đấng Cứu Chuộc ngọt ngào”. Mamdouh tức giận rút súng bắn. Viên đạn xuyên gáy. Đức cha Maloyan gục xuống và trước khi trút hơi thở cuối, ngài kêu: “Lạy Chúa, xin thương xót con; trong tay Ngài, con phó thác linh hồn con”.
“Tôi tìm kiếm Ngài!”
Thánh Augustinô viết: “Giáo hội tiến bước trong cuộc lữ hành giữa bách hại của thế gian và an ủi của Thiên Chúa”. Các vị tử đạo nhắc nhớ chúng ta: “Thế gian ghét các con, vì nó đã ghét Ta trước” (Ga 15,18-19). Thánh Ignatio Antiôkia nói: “Tôi tìm kiếm Đấng đã chết vì chúng ta, tôi ao ước Đấng đã sống lại vì chúng ta”.
Trong cuộc diệt chủng 1915, hơn 1 đến 1,5 triệu Kitô hữu Armeni bị sát hại. Tuy vậy, Giáo hội Công giáo Armeni vẫn tồn tại tại Armeni và nhiều nơi khác. Trong thế kỷ XX, các giáo phận và hạt đại diện được thiết lập khắp thế giới. Máu các vị tử đạo lại trở thành hạt giống sinh Kitô hữu mới.
Chân phước
Ngày 07 tháng Mười năm 2001, Đức Gioan Phaolô II đã tuyên phong chân phước cho Đức cha Ignatio Maloyan. Trong bài giảng lễ, Đức thánh Giáo hoàng nói: “Đức cha Ignatio Maloyan, tử đạo ở tuổi 46, nhắc nhở chúng ta rằng đời sống Kitô luôn là một cuộc chiến đấu thiêng liêng. Đức cha kín múc sức mạnh từ Thánh Thể mỗi ngày để quảng đại chu toàn sứ vụ”.
Tiến trình phong thánh
Nhận thấy tính thời sự tấm gương của Đức cha Maloyan, như chứng nhân trung thành với tình yêu Chúa Kitô trong cơn bách hại, ngày 28 tháng Hai năm ngoái, 2024, Đức Thượng phụ Raphael Bedros XXI Minassian, cùng với Công nghị của Giáo hội Công giáo Armeni ở Cilicia đã đệ trình thỉnh nguyện xin Tòa Thánh được miễn việc xét một phép lạ, và xin phong hiển thánh cho Đức cha Maloyan vì xác tín rằng Đức cha đã nêu một mẫu gương tuyệt hảo của người mục tử và nhà rao giảng Tin mừng. Kèm theo thỉnh nguyện, là hồ sơ (Positio super canonizatione) đã được lập và gởi về Bộ Phong thánh, nêu rõ lý do ủng hộ việc tuyên thánh, nhằm khích lệ những ai đang đau khổ vì Tin mừng tìm thấy can đảm và sức mạnh để gắn bó với Đức Kitô.
Lòng sùng kính đối với Choukrallah Maloyan được ghi nhận cách đặc biệt trong Giáo hội Công giáo Armeni, và có nhiều bằng chứng cho thấy sự chuyển cầu của ngài, thể hiện qua vô số ơn lành thiêng liêng và vật chất mà người tín hữu đã lãnh nhận. Con phó thác linh hồn con”.
(Nguồn: Bộ Phong Thánh: causesanti.va; Dom Antoine Marie OSB: santiebeati.it)
Trực tiếp
