Chân phước linh mục Carmine De Palma - “Anh hùng linh hướng và giải tội”

Photo: Vatican News
Lúc 10 giờ sáng thứ Bảy, ngày 15 tháng Mười Một năm 2025, Đức Hồng y Marcello Semeraro, Tổng trưởng Bộ Phong thánh, đã đại diện Đức Thánh cha Lêô XIV chủ sự thánh lễ tại Nhà thờ chính tòa Giáo phận Bari, miền nam Ý, để tôn phong lên bậc chân phước linh mục Carmine De Palma, vị linh mục thánh thiện, nổi bật về lòng hăng say thánh hóa các tín hữu qua bí tích Hòa giải và linh hướng.

G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA

Thân thế

Những năm đầu trong gia đình

Carmine De Palma sinh tại Bari, chính xác hơn là ở Bari Vecchia, ngày 27 tháng Giêng năm 1876, trong một căn nhà không xa Vương cung thánh đường Thánh Nicola.

Carmine là con thứ ba trong số năm người con của ông Vito De Palma và bà Filomena Catacchio. Gia đình không khá giả nhưng tin tưởng nơi Chúa Quan Phòng. Mới 5 tuổi, Carmini đã mồ côi cả cha lẫn mẹ.

Ngày 03 tháng Mười năm 1886, khi được 10 tuổi, cậu Carmine vào Tiểu Chủng viện Thánh Nicola. Trước đó, anh của Carmine là Francesco Saverio vào chủng viện, nhưng đã qua đời trước khi nhận các chức nhỏ. Khi còn là đại chủng sinh, thầy Carmine nổi bật về sự sắc sảo trong lập luận của mình.

Ngày 05 tháng Mười Hai năm 1897, thầy Carmine thụ phong phó tế, và năm sau đó, ngày 17 tháng Mười Hai năm 1898 thầy được Đức Hồng y Giuseppe Antonio Ermenegildo Prisco, Tổng giám mục Napoli, truyền chức linh mục. Hôm sau, tân linh mục cử hành thánh lễ đầu tiên tại Vương cung thánh đường Đức Mẹ Mân Côi ở Pompei.

Khám phá linh đạo Biển Đức và các năm học ở Rôma

Cha Carmine vốn không khỏe mạnh, nhưng sức khỏe suy giảm thêm do việc học hành; đặc biệt cha bắt đầu bị đau đầu thường xuyên. Vì thế, không lâu sau khi chịu chức linh mục, cha được lưu trú một thời gian tại Đan viện Montecassino của Dòng Biển Đức để dưỡng bệnh. Tại đây, cha không những hồi phục sức khỏe nhưng còn học hỏi được nhiều về linh đạo Biển Đức.

Một năm sau khi trở thành linh mục, cha tốt nghiệp Thần học (Laurea) tại Học viện Leoniano ở Rôma; được sự hỗ trợ của Cơ quan Đại diện Hoàng gia, là tổ chức quản lý các Vương cung thánh đường Hoàng gia Palatin ở Bari, cha hoàn tất việc học vào năm 1902.

Dưới bóng thánh Nicola

Trở về Bari, cha Carmine giữ nhiều chức vụ ngày càng quan trọng trong việc quản trị Vương cung thánh đường Thánh Nicola: làm Tuyên úy từ ngày 17 tháng Sáu năm 1900, làm Kinh sĩ từ ngày 05 tháng Mười năm 1902; từ năm 1903 đến 1915, cha làm thư ký của Đức ông Oderisio Piscicelli-Taggi, Dòng Biển Đức, Đại trưởng Quản đốc Vương cung thánh đường.

Cha làm Chưởng ấn trong sáu năm và từ 1912 đến 1915, rồi làm người trông coi hầm mộ, nơi hiện vẫn lưu giữ thánh tích của thánh Nicola. Sau đó, cha làm Trưởng Kinh sĩ đoàn từ ngày 09 tháng Hai năm 1921, và là Ca trưởng từ ngày 19 tháng Mười Một năm 1922.

Trong thời gian phục vụ, cha Carmine phải giải quyết các vấn đề tế nhị dẫn đến nhiều thay đổi lớn trong việc cử hành phụng vụ tại Vương cung thánh đường, nhất là từ khi cha được bầu làm Trưởng Kinh sĩ đoàn, từ năm 1945 đến năm 1951, khi tổ chức này bị giải thể và Vương cung thánh đường được trao cho các cha Dòng Đa Minh coi sóc.

Tuy vậy, cha luôn gắn bó sâu sắc với thánh Nicola và Vương cung thánh đường kính thánh nhân. Cha đã viết cuốn “Tháng kính Thánh Nicola”, trong đó cha dựa trên các truyền thuyết về vị thánh bổn mạng của Bari để rút ra những bài học có giá trị cho thời đại của cha.

Ngoài ra, trong thời gian lưu trú tại Đan viện Dòng thánh Basilio ở Grottaferrata, gần Roma, đã đã soạn xuất bản một khảo luận về thánh Nicola, sau đó được xuất bản.

Hiến sĩ Biển Đức (Oblato Benedettino)

Sự quen thuộc với Dòng Biển Đức, được nuôi dưỡng qua nhiều lần thăm Đan viện Montecassino và qua tình bạn với các nhân vật nổi bật của dòng, như Đức ông Piscicelli-Taggi, Viện phụ Ildefonso Rea và Đức Hồng y Alfredo Ildefonso Schuster, Tổng giám mục Milano (được phong chân phước năm 1996), khiến cha suy nghĩ về việc có nên trở thành tu sĩ hay không.

Tuy nhiên cha hiểu rằng nơi của mình là bên cạnh thánh Nicola, chứ không phải nơi khác. Trong thư hồi âm sau khi biết quyết định của cha Carmine, Đức Hồng y Schuster viết: “Con cũng sẽ nên thánh trong bậc sống của con”. Tuy không trở thành Đan sĩ Biển Đức, cha Carmine vẫn gắn bó với dòng, thậm chí trở thành Hiến sĩ (Oblato) của Dòng Biển Đức.

Cha giải tội và linh hướng

Ở lại Bari, cha Carmine được các Tổng giám mục liên tiếp tín nhiệm, cũng như nhiều người tìm đến xin giải tội và linh hướng. Như một hiền phụ, cha hướng dẫn nữ đan sĩ Biển Đức ở Đan viện Thánh Scolastica tại Bari, các chủng sinh giáo phận (đặc biệt trong những năm sau Thế chiến I), cũng như các thành viên của Thiếu nữ thuộc Phong trào Công giáo mà cha làm tuyên úy từ 1926 (sau đó cha làm tuyên úy ngành Bà). Cha hướng dẫn các linh mục mới chịu chức cũng như các linh mục kỳ cựu, và các giáo dân dấn thân, như giáo sư Giovanni Modugno (hiện đang tiến hành án phong chân phước) và các giáo dân gia nhập Hiệp hội Hiến sĩ Thánh Biển Đức.

Trong hành trình huấn luyện của cha, việc gia nhập Liên hiệp Tông đồ Giáo sĩ cũng giữ một vai trò cơ bản. Cha biết Liên hiệp này đến khi học ở Rôma. Cha trung thành với các bổn phận của hội viên, vì coi đó là động lực thường xuyên cho đời sống nội tâm.

Cha De Palma và chân phước Elia Thánh Clemente

Cha Carmine De Palma hướng dẫn nhiều phụ nữ bước vào đời sống thánh hiến chiêm niệm, từ các nữ đan sĩ Dòng Biển Đức Thánh Scolastica cho tới các nữ Cát Minh Thánh Giuse, trong số này có nữ tu chân phước Elia Thánh Clemente (được phong chân phước năm 2006).

Cùng Mẹ Maria trên đường cứu độ

Ai tìm đến thăm cha Carmine, thường thấy cha chìm sâu trong cầu nguyện hoặc đọc các sách thiêng liêng. Lòng sùng kính Đức Mẹ của cha cũng không hề mang tính bột phát hay cảm xúc thuần túy: cha thể hiện điều ấy đặc biệt trong tác phẩm “Những mầu nhiệm cứu độ”, trong đó các bài suy niệm về từng mầu nhiệm Mân côi đều gắn với lời “Cùng Mẹ” hướng về Đức Maria, kèm những tước hiệu như “cửa thiên đàng diễm phúc”, “Trinh nữ trung tín”, “người tôn thờ đầu tiên và hoàn hảo của Chúa Giêsu”.

Cho đến hơi thở cuối cùng

Ở tuổi già, các bệnh tật của cha Carmine tái phát: bên cạnh chứng viêm đại tràng mãn tính từ khi còn trẻ, cha còn bị xơ cứng động mạch cơ tim. Cha phải từ bỏ việc đọc sách, vốn là điều cha rất yêu thích, vì thị lực giảm dần. Do đó, cha được miễn đọc Kinh Nhật tụng và thay thế bằng việc lần chuỗi Mân côi trọn bộ mỗi ngày. Khi cử hành thánh lễ, cha đọc thuộc lòng, thay đổi giữa thánh lễ ngày và thánh lễ kính Đức Mẹ.

Dù vậy, cha vẫn tiếp tục đến Đan viện thánh Scolastica để giải tội. Một ngày, khi đang nói chuyện với Mẹ Bề trên, có các bé gái từ giáo xứ Thánh Tâm gần đó đến xin xưng tội. Một cô thiếu nữ đến sau, khi biết cha đang bệnh, đã khuyên các bé quay lại giáo xứ tìm linh mục khác.

Cha De Palma nghe được và rất buồn. Khi cô gái giải thích rằng mình làm vậy vì nghĩ cha còn yếu, cha đáp: “Con biết đấy, đời cha đã dâng lên Chúa cho đến hơi thở cuối cùng”.

Qua đời

Ngày Thứ Năm Tuần Thánh năm 1960, cha muốn mặc phẩm phục của các giám chức, có lẽ vì linh cảm rằng đó sẽ là lần cuối cha sống ngày kỷ niệm Chúa lập phép Thánh Thể.

Tháng Hai năm 1961, cha cử hành thánh lễ công khai lần cuối tại Đan viện Thánh Scolastica; ngày 09 tháng đó, cha rời tòa giải tội. Nhưng bao nhiêu có thể, cha vẫn giải tội tại nhà cho những người tìm đến.

Cha qua đời ngày 24 tháng Tám năm 1961 do suy tim; hưởng thọ 85 tuổi và bảy tháng.

Sau lễ an táng cử hành tại Vương cung thánh đường Thánh Nicola do Đức ông Michele Mincuzzi, Tổng Đại diện Giáo phận Bari, thi hài cha được an táng tại nhà nguyện Kinh sĩ đoàn Thánh Nicola, trong nghĩa trang Bari. Cha muốn trên bia mộ chỉ ghi: “Carmelus De Palma, sacerdos Christi” (“Carmine De Palma, linh mục của Chúa Kitô”).

Ngày 10 tháng Hai năm 2003, di hài cha được chuyển đến nhà thờ Đan viện Thánh Scolastica ở Bari, tại largo Santa Scolastica 1, thuộc khu Poggiofranco.

Án phong chân phước và phong thánh cho đến sắc lệnh về các nhân đức anh hùng

Cha De Palma vốn đã được xem là thánh thiện ngay khi còn sống, và sự nhận định ấy càng gia tăng sau khi cha qua đời. Vì lý do đó, cuộc điều tra cấp giáo phận về đời sống, các nhân đức và danh tiếng thánh thiện đã được mở tại Giáo phận Bari-Bitonto, từ ngày 15 tháng Sáu năm 2001 đến 24 tháng Năm năm 2002. Một cuộc điều tra bổ sung cũng được yêu cầu, kéo dài từ ngày 16 tháng Năm năm 2016 đến ngày 07 tháng Hai năm 2017. Bộ Phong thánh ban hành sắc lệnh công nhận giá trị pháp lý của cả hai cuộc điều tra vào ngày 29 tháng Mười năm 2010.

Ngày 05 tháng Sáu năm 2018, Hồ sơ đúc kết (Positio) được hoàn thành và trình lên Bộ Phong thánh. Ngày 17 tháng Mười Hai năm 2019, các Thần học gia Cố vấn thảo luận và chấp thuận. Ngày 25 tháng Tư năm 2020, các Hồng y và Giám mục của Bộ xác nhận rằng cha De Palma đã sống các nhân đức ở mức độ anh hùng.

Ngày 05 tháng Năm năm 2020, trong buổi tiếp kiến Đức Hồng y Giovanni Angelo Becciu, Tổng trưởng Bộ Phong thánh khi ấy, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã cho phép ban hành sắc lệnh nhìn nhận cha De Palma là bậc Đáng kính (Venerabile).

Phép lạ để phong chân phước

Phép lạ được xét cho án phong chân phước liên quan đến một nữ tu Biển Đức của Đan viện Thánh Scolastica ở Bari, người vào tháng Mười Hai năm 2001 bị sốt: ban đầu tưởng là cúm, nhưng sau đó phát triển thành hẹp nặng lỗ chẩm lớn, với sự chèn ép hành tủy-tủy sống, khiến chị bị liệt dần.

Một ca phẫu thuật thần kinh nguy hiểm được đề nghị, nhưng các nữ tu từ chối; thay vào đó họ cầu xin sự chuyển cầu của cha De Palma.

Trong đêm ngày 01 và 02 tháng Sáu năm 2003, nữ tu bệnh nhân bỗng cảm thấy khỏe hơn; sáng hôm sau, khi đứng dậy, chị đi lại bình thường. Các xét nghiệm tiếp theo cho đến năm 2010 xác nhận vẫn còn chèn ép tủy, nhưng không hề có triệu chứng bệnh lý nào.

Sắc lệnh công nhận phép lạ và lễ phong chân phước

Ngày 28 tháng Ba năm 2025, trong buổi tiếp kiến Đức Hồng y Marcello Semeraro, Tổng trưởng Bộ Phong thánh, Đức Giáo hoàng Phanxicô cho phép công bố sắc lệnh công nhận phép lạ: sự chữa lành của nữ tu được xem là hoàn toàn, bền vững, không thể giải thích bằng y học, và nhờ lời chuyển cầu của cha Carmine De Palma.

Trực tiếp

Livesteam thumbnail