Thánh Phêrô To Rot, vị hiển thánh đầu tiên của Papua New Guinea-Giáo lý viên can trường tử đạo

Peter To Rot glass stained image teaching catechism | © Fr. Zdzislaw Mlak SVD in PNG
Chúa nhật ngày 19 tháng Mười năm 2025, Ngày Thế giới Truyền giáo, Đức Thánh cha Lêô XIV chủ sự thánh lễ trọng thể để tôn phong bảy vị chân phước lên bậc hiển thánh, trong đó đứng thứ hai trong danh sách là chân phước Phêrô To Rot, giáo lý viên can trường người Papua New Guinea, đã được Đức Thánh cha Gioan Phaolô II tôn phong chân phước cách đây 30 năm, vào ngày 17 tháng Giêng năm 1995, trong thánh lễ trọng thể tại thủ đô Port Moresby.

Phúc Nhạc | RVA

Thân thế

Phêrô To Rot sinh năm 1912 tại Rakudai, một làng nhỏ ở miền cực đông của đảo New Britain, thuộc lãnh thổ Papua New Guinea, một quốc gia rộng 463.000 cây số vuông thuộc Úc châu, độc lập năm 1975 và hiện có 8,6 triệu dân, nơi nói hơn 850 thổ ngữ. Lúc ấy, ánh sáng Tin mừng vừa lan tỏa đến vùng đất Papua New Guinea. Phêrô sinh ra trong một gia đình Công giáo và thân phụ của Phêrô sốt sắng cộng tác với các nhà truyền giáo và mẹ cậu là một phụ nữ Kitô gương mẫu, chăm chỉ dạy dỗ bốn người con sống đạo.

Sau khi rước lễ lần đầu, có lẽ vào khoảng những năm 1922 đến 1926, Phêrô To Rot được thúc đẩy bởi lòng sùng kính sâu sắc đối với Bí tích Thánh Thể, cậu đã phục vụ với tư cách là người giúp lễ. Năm 1930, anh bắt đầu theo học tại Trường Đào tạo Giáo lý viên Thánh Phaolô ở Taluligap và ba năm sau trở về làng để thi hành sứ vụ giáo lý viên. Với lòng khiêm nhường và tận tâm, anh đã chu toàn sứ vụ này, được thúc đẩy bởi lòng bác ái lớn lao đối với tha nhân, đặc biệt là người nghèo, người bệnh và trẻ mồ côi.

Anh hăng say giúp đỡ cha xứ, lúc bấy giờ là linh mục thừa sai Carlo Laufer, trong việc mục vụ và truyền giáo cho người đồng hương. Năm 24 tuổi, Phêrô To Rot lập gia đình với một thiếu nữ Gông giáo đạo hạnh, là cô Paola Ia Varpit, 16 tuổi. Gia đình Phêrô sống hạnh phúc và ba người con lần lượt chào đời. Tuy lập gia đình, nhưng Phêrô To Rot không hề xao lãng công việc truyền giáo.

Thế chiến thứ II tràn tới Papua và quân Nhật tiến chiếm đảo New Britain ngày 24 tháng Năm năm 1942. Trong những tháng đầu, tình hình New Britain tạm yên ổn vì quân Nhật bận rộn kiểm soát và xếp đặt cơ sở. Nhưng khi họ thay đổi cơ cấu tổ chức xong, gọng kềm cai trị bắt đầu xiết chặt con dân vùng này. Trước tiên, quân Nhật tập trung tất cả các giới thừa sai tại New Britain, gồm có các linh mục, tu huynh và nữ tu thuộc Dòng Thánh Tâm Chúa Giêsu và quản thúc các vị trong nhà ga trung ương Vunapope. Như rắn mất đầu, cộng đoàn giáo dân New Britain lâm vào cảnh hoang mang hỗn độn. Thấy thế, ông Phêrô To Rot can đảm đứng ra lãnh nhận trách nhiệm hướng dẫn cộng đoàn thay cho vị thừa sai bị quản thúc. Ông tổ chức và hướng dẫn các buổi cầu nguyện chung, cất giữ và trao ban Mình Thánh Chúa, chăm sóc và cứu giúp người nghèo quanh vùng, mặc dù hoạt động mục vụ này gây ác cảm đối với quân Nhật.

Ông thi hành sứ vụ tông đồ một cách bí mật, hết sức thận trọng để không gây nguy hiểm cho mạng sống của các tín hữu, trong khi hoàn toàn ý thức rằng sự lựa chọn này có thể khiến cho ông phải hy sinh mạng sống. Là một người bảo vệ kiên cường cho tính bất khả phân ly của Bí tích Hôn phối Kitô giáo, ông đã chống lại chế độ đa thê mà người Nhật cho phép nhằm lấy lòng các bộ tộc địa phương. Thậm chí, ông đã phản đối cả người anh trai của mình, người đã chọn con đường đa thê, và người này đã tố cáo sự phản đối của em với cảnh sát.

Nhật bản bách hại

Bấy giờ quân Nhật thất trận ở nhiều nơi trong vùng Thái Bình Dương nên bắt đầu đối xử nghiệt ngã với dân chúng những vùng bị họ chiếm đóng. Tại New Britain, quân Nhật cấm tất cả những buổi cử hành phụng vụ tôn giáo và các buổi cầu nguyện, với lý do là để tránh các cuộc oanh tạc của quân đồng minh. Tháng Ba năm sau, 1944, quân cảnh Nhật hạ lệnh bắt giam tất cả những ai sống đạo. Trong tư cách là một tín hữu nhiệt thành và là người hướng đạo cho cả cộng đoàn tại Rakudai, ông Phêrô To Rot không thể tuân theo các chỉ thị độc đoán của giới thống trị. Ông cho xây một hầm trú ẩn dưới nền nhà để bảo đảm an ninh trước mối nguy các cuộc oanh tạc và dặn dò các tín hữu phải rất cẩn thận khi đến dự các nghi thức phụng vụ bởi vì quân cảnh Nhật đã thẳng tay bắt giữ và xử tử một số người dám vi phạm luật cấm cử hành lễ nghi tôn giáo.

Tuy hết sức cẩn thận và kín đáo, nhưng ông Phêrô To Rot vẫn bị khám phá và bị quân cảnh Nhật bắt giam lần đầu trong vòng vài ngày. Họ dọa nạt và áp đảo tinh thần người giáo lý viên can cường này, giam ông một thời gian rồi thả về. Nhưng ít lâu sau, để mua chuộc lòng dân bị trị, quân Nhật hợp thức hóa chế độ đa thê, là thói tục vẫn bị các nhà thừa sai và chính quyền Úc Châu cực lực phản đối. Dĩ nhiên, ông Phêrô To Rot không thể không lên tiếng bày tỏ lập trường chống đối và thế là ông bị chính quyền thống trị Nhật Bản liệt kê vào số người phản động. Hơn thế nữa, ngay cả trong số người đồng hương, cũng có một tầng lớp muốn thoát ra ngoài những gò bó luân lý của Kitô giáo để buông thả theo cuộc sống tháo thứ. Họ bị miếng mồi đa thê quyến rũ nên quay lưng từ bỏ các giá trị thiêng liêng Kitô. Những người này chạy theo cộng tác với giới thống trị để mưu lợi, bất chấp luân lý đạo đức hay tiếng nói lương tâm, và sẵn sàng làm chó săn tố cáo đồng bào. Một trong những người này tên là To Metapa, làm cảnh sát viên cho quân Nhật, tố cáo ông Phêrô To Rot đã có mặt trong buổi cử hành lễ hôn phối của hai đôi vợ chồng Kitô. Thế là ông Phêrô To Rot một lần nữa lại bị bắt giam vào khoảng tháng Năm năm 1945.

Chịu tù ngục

Lần này, ông Phêrô To Rot bị kết án hai tháng tù. Tại nhà giam Vunaiara, ông Phêrô phải cực nhọc làm việc ngoài vườn, trồng rau và hoa trái phục vụ người Nhật suốt hai tháng trường. Nhưng các thân nhân và nhất các giáo hữu không hiểu lý do tại sao ông To Rot lại bị giam cầm hành hạ như thế. Chú của ông To Rot là ông Tarue đến thăm cháu ở nhà giam và được cháu giải thích là đang ngồi tù vì lòng tin và phục vụ Thiên Chúa. Ông To Rot khẳng khái đoan chắc với chú: “Thưa chú, cháu không sợ hãi và không bao giờ chối Chúa. Cháu biết chắc rằng người Nhật sẽ không để cho cháu, một giáo lý viên của Chúa, sống sót và ra khỏi nơi này. Cháu đã tuân theo lệnh Chúa và không tuân theo luật của họ, nên họ sẽ không tha cho cháu tội này đâu.”

Gần ngày mãn hạn tù, một vài người bị bắt cùng lượt với ông To Rot được trả tự do về nhà. Lúc này, thì ông To Rot không còn nghi ngờ gì nữa. Bọn Nhật thống trị đã quyết định sẽ giết ông. Biết thế, ông To Rot chuẩn bị dọn mình chết lành. Với chị Luisa Iakatai, ngày nay là nữ tu Adriana, Dòng Salesien, ông To Rot nói: “Tôi xin đem sự sống của tôi đổi lấy an ninh cho Giáo hội. Nếu tôi chết đi, thì xin mọi người hãy tin chắc rằng tôi chết cho Giáo hội Công giáo. Tôi là người có lòng tin vào tình yêu Thiên Chúa nhân hậu và tôi mong ước được chết cho Chúa và cho Giáo hội của Người.”

Nhắn nhủ cộng đoàn

Trong buổi viếng thăm cuối cùng ở nhà giam, ông To Rot đã nói với mẹ là bà Ia Tumul và chị Luisa IaKatai những lời nhắn nhủ cuối cùng cho cộng đoàn tín hữu hãy kiên vững cầu nguyện và sống lòng tin, tuy rằng phải hết sức kín đáo, đừng để cho quân thống trị bắt gặp rồi phải khổ sở tù tội và đe dọa mất mạng như mình. Ông cũng xin mọi người cầu nguyện cho chuỗi ngày tù tội sớm chấm dứt. Ngày hôm sau, bà Ia Paola đưa hai con nhỏ Andrew và Rufina tới thăm cha ở nhà tù. Bà năn nỉ xin chồng từ bỏ nhiệm vụ giáo lý viên và sống như một người thường để được về với vợ với con. Nhưng ông To Rot buồn bã và cương quyết trả lời vợ: “Đây không phải là việc của em. Sự đã định là anh sẽ chết vì Danh Thánh của Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần, và chết cho sự rỗi của dân tộc mình.”

Tử đạo

Ngày 07 tháng Bảy năm 1945, hai sĩ quan cai tù người Nhật tên là Meschida và Gunto cho gọi bác sĩ quân y người Nhật vào nhà tù. Tại đây, với sự trợ lực của hai viên sĩ quan nói trên, viên bác sĩ quân y đã chích cho ông Phêrô To Rot một mũi thuốc độc. Chỉ vài phút sau đó, ông Phêrô To Rot đã tắt thở. Hơn một tháng sau đó, Thế chiến thứ hai thực sự kết liễu ở vùng Thái Bình Dương với sự đại bại của quân Nhật.

Án phong chân phước

Hồ sơ xin phong chân phước cho vị tử đạo này đã được tiến hành hồi thập niên 1980. 26 chứng nhân, trong đó có cả bà Paola Ia Varpit, phu nhân của vị tôi tớ Chúa, đã được tòa án giáo phận điều tra, đồng thanh xác nhận rằng ông Phêrô To Rot, người giáo lý viên nhiệt thành, đã chết vì cương quyết thực thi bổn phận truyền giáo của mình giữa người đồng hương. Ngày 02 tháng Tư năm 1993, Bộ Phong thánh công bố sắc lệnh nhìn nhận cuộc tử đạo của ông Phêrô To Rot.

Lễ tôn phong

Thánh lễ phong chân phước cho giáo lý viên Phêrô To Rot được Đức Thánh cha Gioan Phaolô II cử hành sáng ngày 17 tháng Giêng năm 1995, tại sân vận động Sir John Guise ở thủ đô Port Moresby, trước sự hiện diện của 15.000 tín hữu Papua New Guinea, dưới trời mưa nặng hạt.

Một số thầy phù thủy chống lại việc bốc mộ chân phước Phêrô To Rot và cho biết sẽ dùng ma thuật làm trời mưa để phá đám buổi lễ. Nhưng các vệ tinh khí tượng cũng tiên báo trời mưa như thế, bởi lẽ bấy giờ là đầu mùa mưa ở Papua New Guinea. Và đàng khác, nước mưa cũng được coi là một hồng phúc từ trời, vì từ bảy tháng trước đó, miền này bị hạn hán. Người con gái duy nhất còn sống của vị chân phước là bà Rufina cũng hiện diện tại buổi lễ. Mặt bà có tô màu theo tục lệ dân địa phương. Cạnh đó là người con trai của bà, tuy rất hài lòng về việc phong chân phước cho ông ngoại, nhưng vì vẫn còn quá gắn bó với phong tục địa phương, nên ông không đồng ý về việc bốc mộ ông ngoại. Bên trái bàn thờ là hòm đựng hài cốt của vị chân phước tử đạo, được trang điểm bằng nhiều bông hoa và đặt trong một cái chòi lợp lá dừa, cạnh đó có cây thánh giá bằng gỗ với hình Chúa Giêsu có khuôn mặt của người Papua bản xứ. Cùng đồng tế với Đức Thánh cha Gioan Phaolô II còn có tất cả các giám mục của 18 giáo phận tại nước này cùng với ba giáo phận thuộc quần đảo Solomon.

Sau công thức ghi tên giáo lý viên Phêrô To Rot vào sổ bộ các chân phước của Giáo hội, Đức Thánh cha đã ấn định lễ kính vào ngày 07 tháng Bảy hằng năm.

Bài giảng thánh lễ

Trong bài giảng, Đức Thánh cha Gioan Phaolô II nêu bật mẫu gương của tân chân phước Phêrô To Rot và nói rằng: “Được niềm tin nơi Chúa Kitô soi sáng, chân phước To Rot đã là một người chồng tốt, một người cha đầy tình thương và một giáo lý viên tận tụy, đầy lòng từ ái và thương xót. Việc tham dự thánh lễ hằng ngày, rước lễ và siêng năng viếng Mình Thánh Chúa, đó là những phương thế đã nâng đỡ ông, giúp ông được sự khôn ngoan để khuyên bảo những người nản chí, cũng như mang lại cho ông ơn can đảm bền đỗ tới cùng. Để có thể trở thành người rao giảng Tin mừng đắc lực, ông Phêrô To Rot đã chuyên cần học hỏi và tìm những lời khuyên của các “đại nhân”. Ông cũng chăm chỉ cầu nguyện cho bản thân, gia đình, dân tộc và toàn thể Giáo hội.

Tấm gương của ông Phêrô To Rot làm chứng cho Tin mừng đã soi sáng cho nhiều người khác sống trong những hoàn cảnh rất có khăn, vì ông đã sống đời sống Công giáo trong vui tươi và thanh khiết. Qua cuộc sống đó, ông đang chuẩn bị cuộc đời để tiến tới cuộc hy sinh cao cả nhất: hằng ngày ông đã chết đi cho chính mình, đã cùng tiến bước với Chúa trên con đường dẫn tới núi Calvario.

Trong thời bách hại, đức tin của các cá nhân tín hữu và cộng đoàn bị thử bằng lửa. Nhưng Chúa Kitô nói với chúng ta rằng không có lý do gì phải sợ hãi. Những người bị bách hại vì đức tin sẽ hùng hồn hơn bao giờ hết: ‘Không phải các con nói, nhưng Thánh Thần của Cha các con sẽ nói trong các con” (Mt 10,20). Cũng vậy, đối với chân phước Phêrô To Rot. Khi làng Rukunai bị chiếm đóng trong thời Thế chiến thứ II, và sau khi các linh mục thừa sai anh dũng bị cầm tù, ông To Rot đã đảm nhận trách đời sống tinh thần của dân làng. Không những ông tiếp tục dạy các tín hữu và viếng thăm các bệnh nhân, nhưng còn làm phép rửa tội, chứng hôn và hướng dẫn các tín hữu cầu nguyện”.

Đức Thánh cha ghi nhận rằng: “Khi nhà cầm quyền hợp thức hóa và cổ võ đa thê, chân phước Phêrô To Rot biết rõ điều này đi ngược với các nguyên tắc Kitô giáo và ông đã mạnh mẽ phản đối các biện pháp đó. Vì Thánh Linh của Chúa ở trong ông, nên ông rao giảng sự thật về sự thánh thiện của hôn phối. Ông đã từ chối chọn con đường dễ dãi, “du di” về luân lý. Chân phước Phêrô To Rot nói: “Tôi phải chu toàn nghĩa vụ của tôi như một chứng nhân của Giáo hội đối với Chúa Kitô”. Sợ hãi và đau khổ không làm cho ông lùi bước. Trong lần bị tù cuối cùng, Phêrô To Rot tỏ ra thanh thản và vui tươi. Ông nói với dân chúng rằng mình sẵn sàng chết vì đức tin và cho dân tộc. Trong ngày chịu chết, ông Phêrô To Rot đã xin vợ mang thánh giá giáo lý viên và thánh giá này đã tháp tùng ông cho tới chết. Ông bị lên án mà không xét xử, đã bình tĩnh chịu tử đạo.”

Với những người sống trong bậc gia đình, Đức Thánh cha nói: “Tấm gương của chân phước Phêrô To Rot tử đạo cũng có giá trị đối với các đôi vợ chồng. Chân phước của chúng ta rất coi trọng hôn nhân, và mặc dù gặp nguy hiểm và chống đối, người vẫn bênh vực giáo huấn của Hội thánh về tính chất một vợ một chồng của hôn nhân và sự chung thủy mà đôi vợ chồng phải có với nhau. Ông đã đối xử với vợ là bà Paula trong niềm kính trọng sâu xa và cầu nguyện với bà sáng tối hằng ngày. Đối với con cái, ông rất mực thương yêu và dành thời giờ cho chúng bao nhiêu có thể. Nếu các gia đình tốt lành, thì làng mạc của anh chị em cũng hòa thuận và tốt lành. Anh chị em hãy giữ vững những truyền thống bênh vực và củng cố đời sống gia đình!”

Tiến trình phong hiển thánh

Trang mạng của Bộ Phong thánh cho biết: Ngày 18 tháng Ba năm 2024, các giám mục Papua New Guinea và Quần đảo Solomon đã xin Tòa Thánh chuẩn chước phép lạ trong tiến trình phong thánh cho chân phước Phêrô To Rot. Dù ghi nhận nhiều bằng chứng về ơn lành, các giám mục thấy rất khó để chứng minh một phép lạ được cho là đã xảy ra, vì hai lý do:

- thiếu các bệnh viện có khả năng cung cấp tài liệu khoa học cần thiết để xác nhận một ca chữa lành được cho là phép lạ;

- nền văn hóa địa phương chủ yếu là truyền khẩu, nên rất khó để ghi chép bằng văn bản các phép lạ có thể đã xảy ra.

Hơn nữa, trong quốc gia này có tới 820 phương ngữ, nên chỉ một số rất ít người có khả năng viết bằng tiếng Anh một cách chính xác và dễ hiểu. Vì những lý do đó, Bộ Phong thánh đã chấp thuận thỉnh cầu này và ngày 22 tháng Ba năm 2024 đã cho phép tiến hành thủ tục đặc biệt xin Đức Thánh cha chuẩn phép lạ để phong thánh cho chân phước Phêrô To Rot và sau cùng Đức Thánh cha đã chấp thuận chung kết.

Đáng chú ý là sau khi được phong chân phước, danh tiếng về sự thánh thiện và các ơn lạ của chân phước đã lan rộng mạnh mẽ, không chỉ trong tất cả các giáo phận của Papua New Guinea mà còn đến Quần đảo Solomon và Australia. Hàng trăm bài viết về ngài đã được xuất bản bởi các Giáo hội, tổ chức và nhóm tín hữu tưởng nhớ ngài.

Nhiều ơn lạ cũng được ghi nhận là nhờ lời chuyển cầu của ngài, đặc biệt sau khi được phong chân phước, thì hình ảnh của ngài trở nên nổi tiếng hơn. Danh tiếng về sự thánh thiện và các dấu lạ của chân phước Phêrô To Rot hiện nay rất rộng rãi và vẫn đang tiếp tục lan tỏa.

Trực tiếp

Livesteam thumbnail