Cha Phaolô Võ Quốc Ngữ - vị mục tử nhiệt thành truyền giáo và thành lập các giáo xứ (P2)

Cha Phaolô Võ Quốc Ngữ. Photo by BVN

Với ước nguyện cả cuộc đời được sống giữa đoàn chiên, những ngày cuối đời được nghỉ hưu với đoàn chiên, nhất là được an nghỉ giữa đoàn chiên, và mong ước được chết trong vòng tay của Mẹ Maria yêu mến, những giây phút cuối đời, ngài không ngừng nhắc đi nhắc lại điệp khúc: “Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ đưa con về với Mẹ”, “Lạy Mẹ của con, con muốn nhờ Mẹ”. 


Văn Việt

Thời sơ khai của giáo hội, thánh Phaolô được xem như là nhà truyền giáo lỗi lạc của mọi thế hệ, và là nhà khai phá tài ba nỗi danh về việc thiết lập các giáo đoàn mới. Hành trình truyền giáo của ngài đi xuyên lục địa. Thời hiện đại, tiếp bước thánh Phaolô, vị thánh quan thầy, Cha Phaolô Võ Quốc Ngữ cũng được người người ca tụng là nhà truyền giáo nhiệt tâm, nhà khai phá không ngơi nghỉ, và là người nỗi danh về việc thiết lập các giáo đoàn mới.

Từ năm 1954 đến năm 1968, trong vòng 14 năm Cha Phaolô Võ Quốc Ngữ đã thành lập 10 giáo xứ là Tân Mai, Tân Bùi, Kim Châu, Kim Phát, Kim Thành, Giang Sơn, Đông Sơn, Hòa Bình, Quy Hòa, và Thuận Hiếu. Đồng thời ngài quản sáu giáo xứ là: Thánh Tâm Pleiku, Mỹ Thành, Hiếu Đạo, Thọ Thành, Tân Thành và Ngọc Thành.

Sau khi Giáo Phận Buôn Mê Thuộc được thành lập, cuối năm 1968, ngài được cử đi làm quản xứ giáo xứ Chi Lăng. Cuộc sống nơi xứ mới chưa yên ổn, mới chỉ được 4 tháng một ngày, vì công việc khởi đầu của một giáo phận đòi hỏi nhiều bàn tay tài ba tâm huyết. Do đó, năm 1969, ngài được mời về làm quản lý Tòa Giám Mục, đồng thời khởi công xây dựng tiểu chủng viện Phaolô Lê Bảo Tịnh, chuẩn bị nhân sự tương lai cho giáo phận. Hình như ngài có duyên nợ với giáo xứ Chi Lăng hay sao, mà sau khi công việc xây dựng tại Tiểu Chủng Viện tạm ổn, ngài lại khăn gói tới giáo xứ Chi Lăng lần thứ hai trong thời gian 11 tháng 11 ngày.

Sau một thời gian như trả hết nợ với giáo xứ Chi Lăng, năm 1970, ngài được sai đến với miền đất xa xôi cách trở, đó là vùng đất Phước Long. Tại đây, ngài lãnh xứ mạng làm quản xứ giáo xứ Phước Long. Sau 2 năm củng cố và phát triển cộng đoàn, năm 1972, giả từ Phước Long, ngài lên đường trở lại Buôn Mê Thuộc nhận trách nhiệm quản xứ giáo xứ Vinh Quang. Giáo dân của giáo xứ Vinh Quang càng ngày càng gia tăng nên một số gia đình đã di cư về phía Buôn Hồ để lập nghiệp, vì vậy năm 1974, ngài lại nói lời chia tay với bà con giáo xứ Vinh Quang, để đi thành lập giáo xứ Vinh Phước, đồng thời bắt tay xây dựng nhà thờ Vinh Phước, một giáo xứ mới nằm ngay bên cạnh giáo xứ Vinh Đức. Năm 1976, sau thời gian đi cải tạo về, ngài trở lại làm quản xứ giáo xứ Vinh Đức.

Năm 1980, ngài trở lại thành phố Buôn Mê Thuộc, tới thung lũng đầy thơ mộng làm quản xứ giáo xứ Hưng Đạo. Năm 1985, rời thung lũng, ngài đi đến Châu Sơn, núi ngọc, lãnh trách vụ quản xứ giáo xứ Châu Sơn. Sau thời gian miệt mài củng cố và phát triển giáo xứ Châu Sơn, năm 1989, từ biệt giáo xứ Châu Sơn ngài về nghỉ tại Tòa Giám Mục để chờ đợi cơ hội thuận tiện để trở lại giáo hạt Phước Long. Nóng lòng chờ đợi ở tòa giám mục thấy không ổn và không thuận tiện, nên cuối năm 1989, ngài xin Đức Cha về Sài Gòn lưu trú tại nhà hưu dưỡng Hà Nội để thuận tiện cho việc chăm sóc mục vụ cho giáo dân giáo hạt Phước Long vốn đang vắng bóng chủ chăn. Niềm mơ ước bấy lâu đã thành hiện thực, ngày 23/11/1991 ngài được chính thức về lưu trú tại giáo xứ Long Điền, làm quản hạt Phước Long, quản xứ Long Điền.

Bấy giờ, cả giáo hạt rộng lớn chỉ có vỏn vẹn 2 linh mục nên ngài đã đảm nhiệm thêm các giáo xứ Nhơn Hòa, Sông Bé, Phước Long, giáo họ Sơn Long và Sơn Giang. Nhận thấy nhu cầu từ các vùng sâu, vùng xa của giáo hạt khi giáo dân ngày càng gia tăng, ngài đã nỗ lực thành lập giáo họ An Bình, và giáo họ Đặc Ân. Vì số giáo dân đông, cộng thêm việc chăm sóc anh chị em sắc tộc, nên cần thêm người cộng tác, ngày 19/11/1994 ngài đã lo liệu sắp xếp thành lập cộng đoàn Dòng Nữ Vương Hòa Bình Long Điền với tôn chỉ “lo cho anh em sắc tộc”. Với lòng yêu mến Đức Mẹ cách đặc biệt, ngài đã ra công tái thiết trung tâm hành hương Đức Mẹ Thác Mơ.

Năm 1997, sau cơn bệnh thập tử nhất sinh, nhưng được Chúa cho bình phục, ngài đã giao cho cha phó Gioan Baotixita Nguyễn Văn Hậu nhận sở để về tiếp quản khu vực Đồng Xoài vừa được Giáo Phận Phú Cường bàn giao lại. Chính tại đây, ngài được giao trách nhiệm quản xứ Giáo xứ Đồng Xoài, và kiêm nhiệm giáo xứ Tân Hưng, giáo xứ Tân Lập, giáo xứ Thuận Lợi, giáo họ Thuận Phú, giáo họ Tân Hòa, và giáo họ Tân Lợi. Đồng thời ngài cũng thành lập giáo họ Đồng Tâm, và giáo họ Tân Điền. Ngày 17/9/1997, ngài đã lo liệu xắp xếp để thành lập cộng đoàn Dòng Nữ Vương Hòa Bình Đồng Xoài.

Ngày 10/01/2000, mặt dù tuổi cao sức yếu, và thấm mệt sau thời gian dài quên mình phục vụ, ngài xin nghỉ chức vụ quản hạt giáo hạt Phước Long, và xin nghỉ công tác mục vụ vì lợi ích chung của Giáo Hội. Nhưng chủ chăn giáo phận đã xin ngài cố gắng sức về lại Phước Long, một giáo xứ chưa có cơ sở vật chất, một đoàn chiên còn tản mát, và vì vâng lời vị chủ chăn khả kính, ngài đã vui lòng trở lại giáo xứ Phước Long lần thứ 2 để tái thiết và hồi sinh giáo xứ vốn chịu nhiều thiệt hại sau chiến tranh. Thế là một lần nữa, ngài âm thầm lãnh sứ mạng quản xứ giáo xứ Phước Long lần thứ 2 sau gần 30 năm xa cách.

Ngày 15/10/2001, dường như biết trước giờ an nghỉ đã gần kề, nên ngài tranh thủ sắp xếp thành lập cộng đoàn dòng Nữ Vương Hòa Bình Phước Long. Khi ngôi thánh đường cuối cùng ngài xây dựng còn dang dở, khi đoàn chiên cuối đời ngài chăm sóc vừa mới hồi sinh, khi cộng đoàn dòng tu công ngài thiết lập chưa được mừng đầy tháng, thì ngày 23/11/2001 ngài đã đi hưu dưỡng tại nhà dưỡng bệnh giáo phận tại giáo xứ Long Điền.

Về dưỡng bệnh tại nhà dưỡng bệnh Long Điền, tưởng là từ nay ngài được nghĩ ngơi, nào ngờ đâu, bề trên giáo phận lại xin ngài phục vụ cho đến giây phút cuối cùng. Nên dù đã nghĩ hưu, nhưng ngài vẫn tiếp tục điều hành công việc quản trị vườn cao su giáo phận tại Long Điền, một tài sản giáo phận do chính tay ngài gầy dựng và chăm sóc.

Với ước nguyện cả cuộc đời được sống giữa đoàn chiên, những ngày cuối đời được nghỉ hưu với đoàn chiên, nhất là được an nghỉ giữa đoàn chiên, và mong ước được chết trong vòng tay của Mẹ Maria yêu mến, những giây phút cuối đời, ngài không ngừng nhắc đi nhắc lại điệp khúc: “Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ đưa con về với Mẹ”, “Lạy Mẹ của con, con muốn nhờ Mẹ”. Và mong ước của ngài đã thành hiện thực, ngài được ra đi về cùng Chúa với Mẹ vào lúc 3h15 phút ngày 16/08/2007 khi mà cả giáo hội vừa hân hoan long trọng mừng chính Mẹ được diễm phúc được Hồn Xác Về Trời.

Thánh lễ đồng tế an táng được cử hành lúc 9h00 sáng ngày 20/08/2007 tại nhà thờ giáo xứ Long Điền, do Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa, giám quản Tông Tòa giáo Phận Ban Mê Thuột chủ tế. Thi hài của ngài được an nghĩ cùng với đoàn chiên ngài tại đất thánh giáo xứ Long Điền, giáo phận Ban Mê Thuột.

Add new comment

10 + 5 =