Cha Phaolô Võ Quốc Ngữ - vị mục tử nhiệt thành truyền giáo và thành lập các giáo xứ (P1)

Cha Phaolô Võ Quốc Ngữ. Photo by BVN

 Bước chân người tông đồ truyền giáo dường như không cho phép ngài dừng chân ngơi nghỉ. Vì thế, năm 1961, ngài giã từ Pleiku lên đường trở lại vùng đất Ban Mê làm quản xứ giáo xứ Thọ Thành.


Văn Việt

Thời sơ khai của giáo hội, thánh Phaolô được xem như là nhà truyền giáo lỗi lạc của mọi thế hệ, và là nhà khai phá tài ba nỗi danh về việc thiết lập các giáo đoàn mới. Hành trình truyền giáo của ngài đi xuyên lục địa. Thời hiện đại, tiếp bước thánh Phaolô, vị thánh quan thầy, Cha Phaolô Võ Quốc Ngữ cũng được người người ca tụng là nhà truyền giáo nhiệt tâm, nhà khai phá không ngơi nghỉ, và là người nổi danh về việc thiết lập các giáo đoàn mới. Hành trình truyền giáo của cha như là hành trình xuyên Việt từ Bắc chí Nam, bởi bước chân cha Phaolô đã in dấu trên 7 giáo phận: Phát Diệm, Quy Nhơn, Kontum, Xuân Lộc, Đà Lạt, Long Xuyên và Ban Mê Thuột.

Để bày tỏ lòng cảm phục, kính mến và để ghi nhớ công ơn to lớn của Cha Phaolô Võ Quốc Ngữ đối với giáo hội Việt Nam, chúng tôi xin cố gắng ghi lại hành trình và những dấu chân của ngài, vị tông đồ nhiệt thành và người mục tử hết lòng vì đoàn chiên yêu dấu.

Cha Phaolô Võ Quốc Ngữ sinh năm 1922, là con trai trưởng trong một gia đình nông dân công giáo hiền lành đạo đức. Gia đình có 7 anh em, 3 trai và 4 gái. Thân phụ là ông cố Gioan Võ Văn Hùng và thân mẫu là bà cố Maria Nguyễn Thị Thúy, sinh sống tại làng Hiếu Nghĩa, Xã Tuy Hậu, Huyện Kim Sơn, Tỉnh Ninh Bình.

Năm 1932, lúc 10 tuổi, chú Ngữ được cha già Phú, chánh xứ Tôn Đạo, nhận làm con thiêng liêng và cho vào học tiểu chủng viện Phúc Nhạc, Giáo Phận Phát Diệm. Năm 1940 học trường Latin. Lúc đó, Thầy Ngữ rất giỏi tiếng Pháp, nên trong một dịp cấm phòng do cha người Pháp giảng tĩnh tâm, Thầy đã nhận ra nhu cầu truyền giáo cho người thượng tại Cao Nguyên Kontum. Vốn bản tính rất năng động, thích phiêu lưu mạo hiểm, và với hồn tông đồ truyền giáo thôi thúc mãnh liệt, nên Thầy đã không ngần ngại xin theo cha người Pháp vào Kontum để rao giảng tin mừng cho anh em sắc tộc miền cao nguyên này. Năm 1945, Thầy đang học triết học và thần học tại Đại Chủng Viện Quy Nhơn thì chiến tranh bùng phát. Đại Chủng Viện phải giải tán. Thầy phải trở về nhà ở với cha mẹ. Trong lúc đó, quê hương Thầy đang gặp nạn đói, nhà ở xa xứ đạo, đường xá lầy lội, tiết trời rét buốt, khăn áo mong manh, nhưng cứ mỗi sáng, mỗi ngày, Thầy vẫn cố gắng đều đặng đến nhà thờ tham dự thánh lễ và học hỏi thêm nơi cha xứ. Năm 1948, Thầy được theo học thần học tại Đại Chủng Viện giáo phận Bùi Chu và được chịu chức linh mục vào ngày 2/8/1952, lúc 30 tuổi và lấy khẩu hiệu đời linh mục là “Ta đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Sau đó, ngài được bổ nhiệm làm cha phó giáo xứ Cư Tam, giáo Phận Bùi Chu. Vì Ngài thông thạo tiếng Pháp, nên mỗi khi Quân Pháp càng quét bắt dân, ngài đến can thiệp xin về, có lúc lên đến hàng mấy trăm người, trong đó có cả những cán bộ cách mạng.

Năm 1954, ngài theo giáo dân di cư vào Nam. Khởi đầu hành trình của ngài tại miền Nam là việc thành lập Giáo xứ Tân Mai, Biên Hòa trong 3 tháng. Rời Biên Hòa, ngài đi lên Bảo Lộc thành lập Giáo xứ Tân Bùi, Bảo Lộc trong 7 tháng. Vào trung tuần tháng 11 năm 1955, rời khỏi vùng đất sương mù giá lạnh, ngài đến với vùng cao nguyên đất đỏ Ban Mê bạt ngàn, khởi đầu bằng việc thành lập Giáo xứ Kim Châu. Với lòng nhiệt thành không cho phép ngơi nghỉ, nên khi Giáo xứ Kim Châu vừa đang được dần dần ổn định, ngài lại tiếp tục mở rộng địa bàn với việc thành lập Giáo xứ Kim Phát ngay bên cạnh giáo xứ Kim Châu. Lập thêm giáo xứ thôi thì chưa đủ, ngài lại thành lập giáo họ Kim Thành. Khi giáo xứ vừa bắt đầu thành hình, ngài liền nghĩ tới việc thành lập thêm cộng đoàn mới, nên ngài đã sẵn sàng chuyển giao giáo xứ lại cho cha già Yên coi sóc để tiếp tục tiến về dòng sông Sêrêpôk để thành lập giáo xứ Giang Sơn nằm giữa dòng sông chảy siết và núi cao hùng vĩ. Nhìn về hướng đông của ngọn núi cao hùng vĩ, có một số gia đình định cư trên hòn đảo chơ vơ. Để thuận tiện cho việc đi lại và quy tụ dễ dàng, ngài quyết định thành lập giáo họ Đông Sơn. Khi việc xây dựng cộng đoàn tạm ổn định, đời sống giáo dân trên đà phát triển thì tháng 8/1958, ngài lại xin Đức cha Kontum cử cha Nguyễn Hữu Nghị về làm quản xứ Giang Sơn và Đông Sơn để ngài tiếp tục lên đường tiếng lên tỉnh Pleiku để khai phá và tạo thêm các trại dinh điền mới. Và ngài đã làm quản xứ giáo xứ Thánh Tâm, giáo xứ Mỹ Thành và Hiếu Đạo.

Bước chân người tông đồ truyền giáo dường như không cho phép ngài dừng chân ngơi nghỉ. Vì thế, năm 1961, ngài giã từ Pleiku lên đường trở lại vùng đất Ban Mê làm quản xứ giáo xứ Thọ Thành. Vừa lãnh sứ mạng mới, ngài lại bắt tay vào việc xây dựng nhà thờ Thọ Thành. Năm 1962, khi công việc xây dựng nhà thờ hoàn thành, cũng là lúc ngài nói lời chia ta với đoàn chiên lên đường đi về hướng quốc lộ 27 để thành lập giáo xứ Hòa Bình.

Sau những năm tháng xả thân quên mình cật lực, xây dựng cơ sở vật chất, củng cố và phát triển đời sống đức tin dân Chúa, ngài đã ngã bệnh. Vì vậy, năm 1964, ngài xin phép Đức Cha đi dưỡng bệnh ở vùng sông nước Long Xuyên. Nhưng lạ thây, dưỡng đường ngài nghĩ ngơi không phải là nơi an nhàn thư thái, mà là đoàn chiên với muôn ngàn những lắng lo, bởi Đức Cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ lại nhờ ngài trông giúp giáo xứ Tân Thành và Ngọc Thành. Bầu nhiệt huyết đam mê xây dựng trào lên trong lòng ngài, nên dù mang tiếng là dưỡng bệnh, nhưng ngài lại ra tay tái thiết nhà thờ Ngọc Thạch. Năm 1965, hình như bệnh cũng đã thuyên giám, và nhà thờ cũng vừa tạm ổn, công đoàn chưa kịp mừng, thì đành phải nói lời tạm biệt với ngài vì ngài phải trở lại Ban Mê đầy kỷ niệm. Ở gắn bó, đi nhớ thương, trên đường về Ban Mê, ngài lại dừng chân trên quốc lộ 14 để thành lập giáo xứ Quy Hòa. Năm 1966, sau khi giáo xứ vừa thành lập xong, đời sống cộng đoàn bắt đầu đi vào nề nếp, ngài lại rời Quy Hòa để đi Phước An. Chính tại đây, ngài thành lập giáo xứ Thuận Hiếu, và khở công xây dựng nhà thờ Thuận Hiếu. Với uy tín lớn và tài ngoại giao nên tháng 4 năm 1966, ngài được điều về nhà thờ chánh tòa Ban Mê Thuột để cùng với Đức Cha Kim và cha Trần Thành Hòa hoàn tất các văn bản chia tách giáo phận tiếp thu khu đất và nhà của các sơ dòng Bênêđictin làm cơ sở tòa giám mục Buôn Mê Thuột – một giáo phận mới được tách ra từ giáo phận Kontum. Cũng trong thời gian này, ngài tiếp tục giúp đỡ Đức Cha Kim chuẩn bị văn bản thành lập và cơ sở vật chất để Dòng Nữ Vương Hòa Bình được hiện diện và phát triển nơi giáo phận mới.

Chúng tôi sẽ tiếp tục nói về Cha Phaolô Võ Quốc Ngữ vị mục tử nhiệt thành truyền giáo trong bài tiếp theo, rất mong quý vị và các bạn quan tâm theo dõi.

Add new comment

8 + 3 =